Thứ Tư, 7 tháng 12, 2011

Chúa nhật 16 Thường niên A


16th Sunday in Ordinary Time

Reading I: Wisdom 12: 13, 16-19 II: Romans 8: 26-27

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN A

Bài Đọc I: Khôn ngoan 12: 13, 16-19; II: Rm 8:26-27

Chúa nhật 16 Thường niên A
Chúa nhật 16 Thường niên A

Gospel

Matthew 13:24-43

24 Another parable he put before them, saying, “The kingdom of heaven may be compared to a man who sowed good seed in his field;

25 but while men were sleeping, his enemy came and sowed weeds among the wheat, and went away.

26 So when the plants came up and bore grain, then the weeds appeared also.

27 And the servants of the householder came and said to him, ‘Sir, did you not sow good seed in your field? How then has it weeds?’

28 He said to them, ‘An enemy has done this.’ The servants said to him, ‘Then do you want us to go and gather them?’

29 But he said, ‘No; lest in gathering the weeds you root up the wheat along with them.

30 Let both grow together until the harvest; and at harvest time I will tell the reapers, Gather the weeds first and bind them in bundles to be burned, but gather the wheat into my barn.”

31 Another parable he put before them, saying, “The kingdom of heaven is like a grain of mustard seed which a man took and sowed in his field;

32 it is the smallest of all seeds, but when it has grown it is the greatest of shrubs and becomes a tree, so that the birds of the air come and make nests in its branches.”

33 He told them another parable. “The kingdom of heaven is like leaven which a woman took and hid in three measures of flour, till it was all leavened.”

34 All this Jesus said to the crowds in parables; indeed he said nothing to them without a parable.

35 This was to fulfil what was spoken by the prophet: “I will open my mouth in parables, I will utter what has been hidden since the foundation of the world.”

36 Then he left the crowds and went into the house. And his disciples came to him, saying, “Explain to us the parable of the weeds of the field.”

37 He answered, “He who sows the good seed is the Son of man;

38 the field is the world, and the good seed means the sons of the kingdom; the weeds are the sons of the evil one,

39 and the enemy who sowed them is the devil; the harvest is the close of the age, and the reapers are angels.

40 Just as the weeds are gathered and burned with fire, so will it be at the close of the age.

41 The Son of man will send his angels, and they will gather out of his kingdom all causes of sin and all evildoers,

42 and throw them into the furnace of fire; there men will weep and gnash their teeth.

43 Then the righteous will shine like the sun in the kingdom of their Father. He who has ears, let him hear.

Phúc Âm

Matthêu 13:24-43

24 Đức Giêsu trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: “Nước Trời ví như chuyện người kia gieo giống tốt trong ruộng mình.

25 Khi mọi người đang ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất.

26 Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện.

27 Đầy tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: “Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?

28 Ông đáp : “Kẻ thù đã làm đó!” Đầy tớ nói : “Vậy ông có muốn chúng tôi ra nhặt đi không?”

29 Ông đáp : Đừng, sợ rằng khi nhặt cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa.

30 Cứ để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy nhặt cỏ lùng trước đã, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi”.

31 Đức Giêsu còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói :” Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình.

32 Tuy nó là loại nhỏ nhất trong các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ rau lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được”.

33 Người còn kể cho một dụ ngôn khác: “Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men”.

34 Tất cả các điều ấy, Đức Giêsu dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn,

35 hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ: Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa.

36 Bấy giờ, Đức Giêsu bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng: “Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe”.

37 Người đáp : “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người.

38 Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần.

39 Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần.

40 Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy.

41 Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người,

42 rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.

43 Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe.

Interesting Details

• The word “weeds” were used to refer to darnel, tares or cockle. These weeds are so much like wheat in the early stages that it is very hard to distinguish them from real wheat. They can only be distinguished later when they are grown, but their roots would be too intertwined with those of the wheat so that both would be uprooted. The grain of these weeds is slightly poisonous and can cause sickness if eaten.

• Sowing weeds into an enemy’s field was a common form of vengeance or sabotage at that time. Roman laws punished it as a crime.

• A mustard seed would grow into a shrub-like tree about 10 to 12 feet high. The emphasis is the contrast between the insignificance of the beginning of the kingdom and the unimaginable greatness of the completed kingdom.

• With the Jews, leaven represents something sinful or evil. One of the preparation ceremonies for Passover was to search and burn every scrap of leaven that can be found in the house. It was however used here by Jesus as a figure of something good. Jesus must have chosen this figure deliberately to arouse attention, and to emphasize the transforming power of the leaven.

Chi Tiết Hay

• Danh từ “cỏ lùng” được dùng để diễn tả một loại cỏ dại gọi là darnel. Loại cỏ dại này rất là giống cây lúa khi mới mọc lên, nên rất khó phân biệt với lúa. Chỉ khi trổ bông thì mới khác với lúa, lúc đó thì rễ của cỏ và lúa đã quấn với nhau nên không thể nhổ một mình cỏ được. Hạt cỏ thì lại độc không ăn được.

• Gieo cỏ lùng vào ruộng người khác là một hình thức trả thù hay phá hoại vào thời đó. Luật La-mã trừng phạt những hành động này như là một tội hình.

• Cây cải giống có thể lên cao khoảng từ 10 đến 12 feet. Dụ ngôn này chú tâm đến sư tương phản giữa sự bắt đầu rất bé nhỏ của Triều Đại Thiên Chúa và sự vinh quang ngoài sức tưởng tượng khi triều đại được hoàn hảo.

• Đối với người Do thái, men tượng trưng cho những điều tội lỗi. Một trong những nghi thức chuẩn bị cho lễ Vượt Qua là tìm tất cả những mảnh men trong nhà mà đốt đi. Nhưng Đức Giêsu lại dùng men cho việc tốt. Có lẽ Ngài muốn dùng hình ảnh này để làm người nghe chú ý và chủ tâm là nói đến tầm mức ảnh hưởng của men.

One Main Point

God believes in people. He is patient to give us freedom to discern, spiritual food to grow, and time to transform for the Kingdom of God.

Một Điểm Chính

Thiên Chúa tin tưởng và đặt niềm hy vọng nơi nhân loại. Ngài kiên nhẫn để cho chúng ta tự do để nhận định, của ăn thiêng liêng để bồi bổ tâm hồn, và thời gian để biến cải tâm hồn cho Triều Đại Thiên Chúa.

Reflections

1. To separate rightly the ones from the others is an impossible task for those who can judge only according to appearance. God alone can see clearly what is in the human heart. Contemplate your social and spiritual environments. What do you see of yourself and what do you perceive of others?

2. Contemplate your daily life. Like the mustard seeds that grow ceaselessly, what effort have you put in to grow spiritually under the grace of God? Is your faith growing stronger day after day? What should you do to encourage it along?

3. Like the yeast that leavens the dough, how have you allowed or used the Words of God to transform your complete being for the Kingdom of God?

Suy Niệm

1. Phân biệt người công chính giữa các người khác là một việc làm vượt ngoài khả năng của con người khi chúng ta chỉ nhận định dựa vào những yếu tố bên ngoài. Chỉ có Thiên Chúa mới thấy rõ tâm lòng của mỗi người. Suy niệm về hoàn cảnh xã hội và thiêng liêng của đời sống của chính mình. Bạn nhận thấy bạn là người thế nào và bạn xem các người chung quanh là người thế nào?

2. Suy niệm về cuộc sống thường ngày của chính mình. Hạt cải vươn lên từng phút từng giây. Bạn hãy suy niệm về nổ lực bạn dành cho hạt cải đức tin trong tâm hồn của mình. Đức tin của bạn triển nở như thế nào trong ân sủng và quan phòng của Thiên Chúa?

3. Như là một tí men đã làm dậy cả đấu bột, bạn đã dùng hoặc mở lòng như thế nào cho Phúc Âm của Thiên Chúa biến đổi toàn diện con người của mình cho Triều Đại Thiên Chúa?

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Kn. 12, 13.16-19; Rm. 8, 26-27; Mt. 13, 24-43

MỤC LỤC

1. Nụ cười

2. Nhận diện sự dữ

3. Tất cả là hồng ân – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

4. Đừng nhổ cỏ lùng

5. Giáo Hội thánh thiện gồm những người có tội

6. Thiên Chúa nhẫn nại với cỏ dại – Charles E. Miller

7. Thế chỗ Chúa Giêsu trên thập giá

8. Sống với cỏ lùng

9. Tội lỗi nào được tha thứ – R. Veritas

10. Cỏ dại

SUY NIỆM

1. Nụ cười

Theo yêu cầu, một nhà đạo đức đã kể lại kinh nghiệm đời mình như sau:

- Giai đoạn đầu tiên, tôi được Thiên Chúa cầm tay, dẫn tới xứ sở của hoạt động và tôi đã ở lại đó nhiều năm. Tiếp đó, Ngài trở lại đưa tôi đến xứ sở của niềm đau, tại đây, trái tim tôi được thanh luyện khỏi mọi dính bén với của cải trần gian. Sau đó, Ngài dẫn tôi đến miền đất của cô đơn, ở đó mọi ti tiện nhỏ bé của bản thân đều bị thiêu rụi. Và rồi tôi có thể đi vào xứ sở của thinh lặng, trước mặt tôi, mầu nhiệm của sự sống và sự chết đều được bày tỏ.

Nghe thế, người ta liền hỏi:

- Phải chăng ngài đã đạt tới giai đoạn cuối cùng của cuộc tìm kiếm.

Nhà đạo đức trả lời:

- Chưa đâu, ngày nọ, Thiên Chúa nói với tôi: Lần này Ta đưa con vào thẳm cung của đền thánh để con được đi vào cõi lòng Ta.

Thế là tôi đã đến xứ sở của nụ cười.

Người Tây phương thường bảo: Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn vậy. Niềm vui phải chăng là nét chính yếu trên khuôn mặt của một vị thánh.

Cựu Ước đã nói: Thiên Chúa là Đấng làm hoan lạc tuổi xuân con. Sở dĩ như vậy vì Ngài là niềm vui. Đi vào cõi lòng của Ngài là tìm được nụ cười muôn thuở của Ngài. Nụ cười không chỉ là thể hiện của niềm vui, mà còn là một thách thức trong những hoàn cảnh bi đát. Đó là nụ cười của Sara giữa cảnh già nua con sẻ. Thực vậy, khi Thiên Chúa cho biết bà sẽ thụ thai, mặc dù tuổi đã cao, thì bà đã bật cười.

Thiên Chúa thường khơi dậy những nụ cười như thế, bởi vì tư tưởng và lối của Ngài là những nghịch lý đối với con người. Thực vậy, cả cuộc sống cùng với lời rao giảng cái chết và sự phục sinh của Ngài là một chuỗi những nghịch lý trước mắt thế gian. Đang khi người đời chạy theo tiền bạc, địa vị và danh vọng thì Ngài lại tuyên bố: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Đang khi người đời thích gây bạo động và hận thù, thì Ngài lại truyền dạy: Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà. Đang khi người đời cho rằng cái chết là một bất hạnh tột cùng, thì Ngài lại dạy đó là khởi đầu của ơn phúc, là cửa ngõ dẫn vào sự sống.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được những điều nghịch lý về Nước Trời. Nhỏ bé như hạt cải nhưng khi mọc lên sẽ trở thành cây to. Ít ỏi như nhúm men nhưng sẽ làm dậy cả đấu bột. Cả hai hình ảnh này đều nói lên sức mạnh của Nước Trời Chúa Giêsu muốn thể hiện qua Giáo Hội của Ngài. Khởi đầu từ một nhóm người nhỏ bé, Giáo Hội dần dần quy tụ mọi dân nước trên thế giới. Xây dựng từ một đám dân chài dốt nát, Giáo Hội đã trở thành phổ quát. Và trải qua bao nhiêu bách hại, Giáo Hội ấy vẫn tiếp tục đứng vững.

Là con cái Giáo Hội, chúng ta được mời gọi đặt tất cả niềm tin tưởng vào Chúa. Tiến bước trong tình yêu quan phòng của Ngài luôn phù trợ chúng ta, dù trải qua gian nan thử thách, chúng ta luôn xác tín rằng: Với những ai yêu mến Chúa, thì Ngài sẽ làm cho mọi sự đều quy về sự thiện hảo. Với niềm tin tưởng ấy, chúng ta quả thực đang tìm được nụ cười muôn thuở của Thiên Chúa.

2. Nhận diện sự dữ

Thái độ ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin Mừng vừa nghe xem ra không được hợp tình và hợp lý. Thực vậy, có anh nông dân nào mà lại không chịu khó đi xịt thuốc, hay đi nhổ, mà cứ để cho cỏ dại mọc xả láng trên đồng ruộng của mình.

Thế nhưng, nếu chúng ta hiểu rằng ông chủ ấy là chính Thiên Chúa và cỏ dại là những kẻ tội lỗi, thì chúng ta lại thấy cách cư xử này thật tuyệt vời, vừa hợp tình, lại vừa hợp lý.

Đúng thế, Ngài không đồng lõa và dung túng kẻ tội lỗi, nhưng đã đối xử với họ theo lòng khoan dung và nhân ái. Ngài kiên nhẫn đời chờ kẻ tội lỗn sám hối và hoán cải.

Nếu Thiên Chúa tiêu diệt sự ác ngay bây giờ, thì chắc chắn không ai trong chúng ta có thể sống sót, bởi vì như lời Thánh Vịnh đã diễn tả: Từ trong lòng mẹ, tôi đã là tội nhân, thoạt sinh ra, tôi đã mắc tội rồi.

Và như chúng ta đã biết: Tình thương thì nhẫn nại, nên Thiên Chúa luôn chờ đợi thiện chí hoán cải của từng người, đồng thời Ngài còn ban ơn nâng đỡ họ trên mọi bước đường đời, để rồi cuối cùng, ngày thầm phán mới tới, ngày xét xử tuyệt đối công mình và không ai có thể trách cứ Ngài là đã không dủ lòng thương xót.

Nếu như Thiên Chúa không dung túng và đồng lõa với sự ác, thì chúng ta cũng không được phép thở dài và chán ngán, thất vọng và buông xuôi, nhưng phải cố gắng trở thành người cộng tác vào việc xây dựng Nước Trời.

Thực vậy, ông chủ đã xác quyết:

- Kẻ thù của ta đã làm như vậy.

Vì thế, bước khởi đầu của chúng ta cũng phải là nhận diện sự ác. Tiêu chuẩn để nhận diện sự ác không phải là bản thân chúng ta với những sở thích riêng tư, nhưng phải là Tin Mừng, với những đòi hỏi của Chúa.

Dưới ánh sáng của Tin Mừng, liệu chúng ta có nhận ra đâu là những dấu chỉ của sự ác đang hoành hành trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cũng như trong thế giới hôm nay hay không?

Sau khi xem xong cuốn phim “Dưới ánh mặt trời của Satan”, trong một cuộc phỏng vấn, cha Bourgeois đã đưa ra những dấu chỉ của sự ác hôm nay, đó là sự khinh rẻ con người và cướp đi quyền sống của họ; thái độ tôn thờ ngẫu tượng như tiền bạc, quyền lực, lạc thú; sống trong ảo tưởng vì cho rằng khoa học có thể giải quyết được mọi sự; đánh mất niềm hy vọng, không còn nhìn tới tương lai và sau cùng là đánh mất chính mình, không còn biết rõ con người mình là như thế nào nữa.

Như vậy, sự ác có thể ẩn hiện dưới nhiều khuôn mặt, đôi khi lại là những khuôn mặt thật dễ thương, đầy quyến rũ và rất hấp dẫn.

Thế nhưng, sự dữ không phải chỉ hiện diện trên bình diện thế giới và cộng đồng nhân loại, mà còn hiện diện ngày trong chính cõi lòng chúng ta. Bởi vì cõi lòng chúng ta là như một thửa ruộng trong đó cỏ lùng xen lẫn với lúa tốt.

Vấn đề là làm thế nào để hạt giống Nước Trời đã được Thiên Chúa gieo vãi vào cõi lòng chúng ta được nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái. Chính vì thế, chúng ta phải cố gắng kiện toàn bản thân và thể hiện những giá trị của Tin Mừng trong chính cuộc sống chúng ta, bởi vì sự góp phần vào công cuộc kiến tạo Nước Trời phải được khởi đi từ chính bản thân mỗi người chúng ta.

3. Tất cả là hồng ân – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo.

Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sư hiện diện của ma quỷ. Ma quỷ hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuần bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người. Nhưng ma quỷ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.

Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hoà bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hoà bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sự thế giới được ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh.

Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc huỷ hoại, tha hoá, nô lệ hoá con người.

Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những hoạt động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà vị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc.

Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.

Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt. Nếu phạt ngay nhưng người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Madalêna, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Augustinô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa tốt.

Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên Chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành. Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa. Có thuận lợi tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm đức.

Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Khi gặp những người xấu trong xứ đạo, trong hội đoàn, bạn có muốn khai trừ người đó ngay tức khắc không?

2) Trong con n


(Theo website Phạm Minh Mẫn)

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

Ngày 15-8: Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời


Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời

I. TIẾN TRÌNH TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI

Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời. Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV hiện ở nền nhà thờ Stanta Engracia thành Saragossa (Tây Ban Nha) có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Và chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết niềm tin Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh quang đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như Antiokia. Do xác tín và ngợi khen “Chức phẩm Thiên Mẫu” và “Đức Đồng Trinh” của Mẹ là hai căn nguyên bước vinh quang của người, Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục, các nhà thần học và toàn thể Giáo Hội.

A. Các Thánh Giáo phụ

Các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu như các Thánh Môđestô, Basiliô, Giêrônimô, Augustinô, Germanô, Đamascenô, và Thêôđôrê Studium đồng thanh tung hô bước vinh quang cuả Mẹ Maria do chức phẩm Thiên Mẫu và đức Đồng trinh của Mẹ. Riêng Thánh Đamascênô nói: “Cần thiết rằng con Thiên Chúa, khi sinh ra đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh”.

B. Các Đức Giáo Hoàng

- Đức Adrianô I và Đức Pascalê có những đồ thờ trang trí bằng hình ảnh Mẹ lên trời.

- Đức Alexanđrô III nói: “Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn”.

- Đức Thánh Piô V sửa đổi lại kinh Phụng vụ với bài đọc lễ Mẹ lên trời.

- Đức Bênêđictô XIV: Về ngày lễ Đức Mẹ lên trời, Giáo hội đọc các bài giảng cuả thánh Đamascenô và thánh Bênađô thấy rõ ràng Rất thánh Trinh Nữ lên trời cả hồn và xác: Đó là một dấu chỉ và một bằng chứng niềm tin của Giáo hội.

- Đức Piô XII nối tiếp các Đức tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong thông điệp “Corporis Mystici” ngày 29-6-1943, ngài viết: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ tỏa sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ”.

C. Các Đức Giám mục và toàn thể Giáo hội

Ngày 23-2-1870, 200 Giám mục của Công đồng Vatican làm đơn thỉnh nguyện Đức Thánh Cha định tín Đức Mẹ hồn xác lên trời. Năm 1920, 260 Giám mục từ nhiều nứơcÝ, nước Pháp, trong khi các Hội đồng Giám mục nước Đức, Áo, Anh, và Thụy Sĩ còn im lặng. Năm 1934, sau năm năm chiến dịch “Forge Italiane” ráo riết vận động, 600 Tổng Giám mục và Giám mục đã chấp thuận cuộc trưng cầu dân ý khắp thế giới tâu xin Toà thánh định tín.

Tại Pháp và Ý năm 1929, một hội cầu nguyện được thành lập để xin Chúa cho việc định tín được thành tựu. Đại hội Thánh Mẫu tại Nantes năm 1924 cũng bày tỏ nguyện vọng đó.

D. Các nhà thần học

Nối tiếp các Thánh Giáo phụ và Thẩm quyền của Giáo hội, các nhà thần học qua các thế kỷ cũng tích cực Chúa đồng tâm nhất trí về tín lý Mẹ Maria hồn xác lên trời:

Thế kỷ XII và XIII, có các Thánh Albertô, Bônaventura, Tôma, Fullertô và các nhà thần học Hugh St. Victor, Sicard Cremona, Durand Mende. Thế kỷ XV có Thánh Antôniô và nhà thần học Gabriel Biel. Thế kỷ XVI có các Thánh Canisiô, Bellarminô, các nhà thần học Suarez, Soto, Đức Hồng y De Berulle và cả trường phái Pháp. Thế kỷ XVII có các nhà thần học Billuart, Theophile Raynaud. thế kỷ XVIII có Thánh Anphong, Đức Hồng y Lambeotini (sau này là Đức Giáo Hoàng Beneđictô XIV), các nhà thần học Sedlmayr, Trombelli. Thế kỷ XIX và XX có các nhà thần học Scheeben, Lannerz, Janssens, Lagrange, Jugie, Roschini, Balic, Bittremieux và Đức Hồng y Lépicier. Theo cha Deneffe, từ cha Scheeben có ít là 18 nhà thần học xác quyết rằng tín lý Mẹ hồn xác lên trời có thể định tín. Nhà thần học Sertillanges viết một câu rất dí dỏm về dự phục sinh của Mẹ: “Chúng tôi tin rằng đường lối mọi xác phàm phải ngoắt quay đi khi nói về Đức Trinh Nữ. Anh hùng ca của sâu bọ phải im bặt để chúng ta ca lên trên ngôi mộ này Hoan khúc Magnificat thay vì Ai khúc Deprofundis”.

Như vậy, toàn thể Giáo hội cùng với các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo Hoàng và các nhà thần học đều cùng một niềm tin Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác. Do đó, cùng với các nhà thần học Bainvel, dân Chúa tin tưởng tín lý Mẹ hồn xác lên trời mau chóng được định tín.

E. Chuẩn bị định tín

Ngày 1-5-1946, với Thông điệp “Deiparae Virgins” gửi các Giám mục khắp Giáo hội, Đức Piô XII cho biết từ năm 1840 đến năm 1940 những đơn thỉnh nguyện tâu xin Toà thánh định tín Mẹ Maria hồn xác lên trời đã đóng thành hai cuốn sách. Những đơn thỉnh nguyện này do các Đức Hồng y, các Thượng phục Giáo chủ, các Giám mục, đặc biệt 200 Nghị phụ Công đồng Vatican I, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các trường Đại học, các đoàn thể và đông đảo giáo dân. Đức Thánh Cha xin các Đức Giám mục cho ngài biết lòng sùng kính Đức Mẹ lên trời của hàng giáo sĩ, giáo dân của giáo phận các ngài và xin các ngài theo sự khôn ngoan xét đoán thế nào về việc tuyên tín.

Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi tông cho Cơ mật viện, loan báo vào ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, một biến cố sẽ là niềm vui lớn lao cho toàn thể thế giới Công giáo. Đó là nhờ ơn soi động và sự trợ lực của Thiên Chúa, ngài sẽ tuyên tín Đức Mẹ hồn xác lên trời. Một tia sáng mới sẽ bừng sáng trên vầng trán của Mẹ mà từ xa xưa qua các thời đại, Giáo hội cùng với các Giáo phụ, tiến sĩ và các nhà thần học vẫn tin tưởng mộ mến và sùng kính Mẹ lên trời cả hồn xác. Đức Thánh Cha cũng hỏi ý kiến Cơ mật viện về việc ngài sẽ long trọng tuyên tín Mẹ hồn xác lên trời như một chân lý đã được Thiên Chúa mạc khải. Sau khi đã biết ý kiến tích cực đồng thuận, Đức Thánh Cha tỏ lòng hoan hỉ được các Hồng y, Giám mục đồng tâm nhất trí với ngài để chứng minh điều Giáo hội vẫn tin tưởng, mộ mến và giảng dạy.

G. Ban hành Thông điệp Munificentissimus Deus

Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XIII ban hành thông điệp “Munificentissimus Deus” long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin. Đại lược thông điệp bất hủ này là: Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an ủi cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Mẹ hồn xác lên trời.

Sau đó, Đức Thánh Cha lược qua tiến trình tín lý này qua đức tin của Giáo hội, qua Phụng vụ, các Giáo phụ, các nhà thần học hằng tin tưởng Mẹ thụ thai, hạ sinh và nuôi dưỡng Chúa Kitô, thì sau cuộc đời này, Mẹ cũng được kết hợp với Chúa cả hồn và xác. Và Mẹ đã cùng với Chúa Kitô chiến thắng địch thù hoả ngục, thì Mẹ cũng được cùng với Chúa khải hoàn vinh quang.

Đức Thánh Cha cũng kể qua cuộc chuẩn bị của ngài. Và ngài hy vọng rằng việc ngài định tín sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế giới quay về với Thiên Chúa Ba Ngôi, cho giáo dân thêm lòng sùng mến Mẹ hơn, hiểu biết giá trị đời sống con người và mục đích cao siêu của linh hồn và xác. Sau hết, đức tin vào Mẹ hồn xác lên trời sẽ làm thêm vững mạnh đức tin của chúng ta vào vinh phúc mai sau.

H. Định Tín

Tín điều Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm do Đức Piô IX tuyên tín năm 1854 đã là một viên bích ngọc rực sáng trên triều thiên của Mẹ, và là một luồng sáng rọi chiếu vào tín lý Mẹ lên trời cả hồn xác đã loé sáng lên qua bao thế kỷ, để ngày nay bừng sáng lên thành tín điều thêm một viên hoàng ngọc trên triều thiên vinh quang của Mẹ. Do đó, Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700.000 dân chúng dưới bầu trời tươi sáng, Đức Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm ngân vang khắp quảng trường Thánh Phêrô, vọng vang vào đền thờ chật ních hơn 80.000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm những lời trịnh trọng tuyên tín: “Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự tình chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ hoàn toàn phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa”.

Đức Thánh Cha vừa dứt lời, thánh ca Te Deum do tất cả mọi người trong quảng trường Thánh Phêrô ca lên hùng tráng hoà nhịp với những tiếng chuông trầm hùng của đền Thánh Phêrô và của 400 đền thờ khắp thành Rôma như cùng với toàn thể thần thánh trên trời hân hoan reo mừng chúc tụng ngợi khen Mẹ vinh quang của Thiên Chúa, của Giáo hội và của toàn thể loài người.

II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ

Đầu tiên Giáo hội Đông phương thành lập lễ tôn vinh Mẹ Thiên Chúa tại Giêrusalem sau Công đồng Êphêsô năm 431, và gọi là “Ngày của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa”. Năm 380, giáo đoàn Antiôkia, và đầu thế kỷ VI, Giáo hội Đông Phương gọi là “Lễ Mẹ ly trần”. Năm 600, hoàng đế Maurice ra sắc lệnh mừng lễ này khắp nước Byzantine. Khi quân Ba tư xâm chiếm Trung Đông, các đan sĩ chạy sang Rôma năm 650 đem theo lễ này sang và đổi là “Lễ Mẹ lên trời” và mừng vào ngày 15 tháng 8. Rồi từ Rôma, lễ này được lan đến Milan và Tây Ban Nha. Đức thánh Sergiô tổ chức một cuộc rước long trọng sùng kính Mẹ lên trời. Thế kỷ VIII lễ này lan sang Anh và Đức như Hội đồng Giám mục Áo tại Salzburg xác nhận, và sang Pháp do Hội đồng Giám mục Pháp tại Mayenne. Dần dần lễ này được lan tới tất cả các nước khắp thế giới.

Đức Lêô IV qui định lễ Mẹ lên trời có tuần tám ngày, và Đức Nicolas I cho biết từ lâu lễ Mẹ lên trời có lễ Vọng ngày áp.

Thế kỷ thứ XIII lễ lên trời cón có ngày chay trước lễ và là lễ long trọng nhất các lễ Đức Mẹ. Thế kỷ XVI theo nhà thần học Suarez, lễ này đặc biệt hơn mọi lễ Đức Mẹ, vì bày tỏ cho chúng ta thấy vinh quang, phần thưởng và sự khải hoàn của Rất Thánh Trinh Nữ.

Thời Trung cổ, lễ Mẹ lên trời là ngày làm phép muà màng và các hoa trái đầu mùa. Năm 1950, lễ Mẹ lê trời có tầm quan trọng trong khắp Giáo hội do Đức Piô XII định tín”Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác” và qui định thành Lễ Trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc mọi người tham dự Thánh lễ. Năm 1970, Phụng vụ qui định lễ Mẹ lên trời là một lễ Đức Mẹ duy nhất có lễ Vọng vào chiều ngày 14 trước chính ngày lễ 15 tháng 8.

III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ

1. Mẹ Maria hồn xác lên trời là biến cố sau cùng trong mầu nhiệm đời sống Đồng công Cứu chuộc của Mẹ đặc biệt liên đới với mầu nhiệm Nhập Thể Cứu thế của Chúa Giêsu, Con Mẹ.

2. Vì Mẹ đã chiụ thai và hạ sinh Chúa Giêsu, thì sau khi về trời vinh quang, Chúa Giêsu cũng đưa Mẹ vào phúc vinh quang cùng với Người.

3. Mẹ đã cho thân xác Chúa sự sống nhân loại, thì đáp lại, Chúa cũng cho thân xác Mẹ sự sống trường sinh vinh quang.

4. Do đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội, thân xác trinh trong của Mẹ được thoát án lệ của tội Nguyên tổ mà được sống lại và lên trời cùng với cùng với linh hồn trong sáng của Mẹ.

5. Biến cố Mẹ lên trời hồn xác hoàn thành sự thánh thiện và huân nghiệp của Mẹ, là niềm ủi an và hy vọng tràn trề của chúng ta, là khởi đầu và là hình ảnh Hội thánh sẽ được thành toàn trên Nước Trời.


(Theo website Phạm Minh Mẫn)

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2011

Ngày 13/8: Thánh Pontianô, Giáo hoàng và Hippôlitô, Linh mục, tử đạo


Thánh Pontianô:

Kế vị Thánh Urbanô I làm giáo hoàng khoảng năm 230 Ngài bị bắt đi lưu đày cùng với vị phản giáo hoàng là Hippôlitô, tới miền Sardinia trong thời kỳ bách hại của hoàng đế Maximinô. Ngài nổi danh và được kính nhớ vì đã tử đạo tại đó.

Thánh Pontianô

Thánh Pontianô

Thánh Hippôlitô

Thánh Hippôlitô được kính nhớ hôm nay là một linh mục và là một thần học gia sống vào đầu thế kỷ thứ ba. Ngài đã trước tác một số tác phẩm bằng tiếng Hy lạp, nay chỉ còn lại quá ít. Trong số các tác phẩm này, cuốn Philosophoumena đả kích những học thuyết đương thời. Kính Ngài, các đồ đệ đã dựng được một bức tượng mà thế kỷ XVI người ta tìm thấy. Trên ghế bức tượng của Ngài có bảng ghi các sách của Ngài. Ngài lập bảng tính về lễ phục sinh không được chính xác lắm. Dầu không kết án, Đức Callistô nghi ngờ thần học của thánh Hippôlitô về lời Chúa. Khi đức Callistô được chọn làm giáo hoàng năm 217, Hippôlitô chống lại và tự đặt mình làm phản giáo hoàng, Ngài còn tố giác điều mà Ngài coi như sự dung thứ của đức Callistô cũng như không rút lại lời dèm pha. Ngài được coi như là người đã viết cuốn chỉ nam chính yếu về phụng vụ gọi là cuốn “truyền thống tông đồ”. Sớm bị Giáo hội Tây Phương quên lãng, Ngài lại sống lâu dài trong các Giáo hội đông phương, thế giá của Ngài đối với chúng ta là bản lễ qui Roma của Ngài, dầu không cố định từng lời.

Năm 235, hoàng đế Maximinô khơi lại cuộc bách hại các Kitô hữu. Cả Đức Potianô lẫn vị phản giáo hoàng Hippôlitô đều bị đầy tới miền hầm mỏ Sardinia. Hippôlitô không đòi làm giáo hoàng nữa và khuyên những ai theo mình hãy vâng phục Đức giáo hòang hợp thức. Cả hai đấng đều từ trần như là nạn nhân của trại tập trung. Khi cuộc bách hại chấm dứt, xác các Ngài được mang về mai táng tại Roma (ngày 13 tháng 8).

Gương Tử Đạo của hai thánh nhân

Sống khiêm nhường, vâng phục Thiên Chúa. Vâng phục và tin tưởng các vị đại diện Thiên Chúa lãnh đạo, dẫn dắt đàn chiên.

Lạy Chúa Giêsu khiêm nhường và hiền hậu, xin giúp chúng con biết sống khiêm nhường và vâng phục các vị đại diện Chúa trong Hội Thánh. Xin giúp chúng con biết nhìn đến điểm tốt của nhau trong cộng đoàn, hầu chúng con dám dấn thân sống khiêm nhường như hai thánh Potianô và thánh Hippôlitô đã và đang góp sức kiến tạo hòa bình trong tình yêu Chúa như Chúa vẫn hằng mong ước chúng con sống mỗi ngày.

Tổng hợp


(Theo website Phạm Minh Mẫn)

Thứ Năm, 11 tháng 8, 2011

Entretien Cardinal Jean-Baptiste Pham Minh Man


Ho Chi Minh Ville – La rencontre des Evêques asiatiques qui se tiendra pour la première fois de son histoire en 2012 au Vietnam constitue pour les fidèles vietnamiens une opportunité extraordinaire de « partager une expérience d’unité et de porter un message d’amour à l’Asie ». C’est également un signe du désir d’ouverture qui peut se respirer dans le pays, où les chrétiens sont appelés à « faire resplendir la lumière du Christ ». C’est ce qu’affirme S. Em. le Cardinal Jean-Baptiste Pham Minh Man, Archevêque de Ho Chi Minh Ville, cité qui accueillera la prochaine Assemblée générale de la Fédération des Conférences épiscopales d’Asie (FABC), mettant à disposition les structures du Centre pastoral archidiocésain et du Séminaire de Xuan Loc pour accueillir plus de 100 délégués des 15 pays membres de la FABC. La Fédération – remarquent des sources de Fides – a fortement voulu que cette réunion ait lieu au Vietnam afin que les Eglises asiatiques donnent un signal de soutien, de communion et de proximité aux fidèles vietnamiens. Voici le texte de l’entretien accordé à l’Agence Fides par S. Em. le Cardinal Pham Minh Man.

Cardinal Jean-Baptiste Pham Minh Man

Cardinal Jean-Baptiste Pham Minh Man

Le Vietnam accueillera pour la première fois la rencontre des Evêques asiatiques : s’agit-il du signe d’un réel changement en cours dans le pays ?

Après de nombreuses années au cours desquelles nous avons vécu dans des conditions d’isolement, il existe au sein de la population vietnamienne un désir d’ouverture et d’insertion dans le monde d’aujourd’hui et de ses dynamiques de mondialisation. Récemment, j’ai eu l’occasion de rencontrer, avec les représentants de six religions, les Ambassadeurs, les autorités civiles de Ho Chi Minh Ville pour les vœux de bonne année et j’ai annoncé la Parole de Jésus : « Le Fils de Dieu, incarné dans l’humanité, est venu porter la paix ». Ceci est essentiel pour tous. C’est un don que nous voulons communiquer à tous. Avec la paix, chacun a la force de vivre la fraternité malgré les difficultés, de se sentir une seule famille et de vivre ensemble dans le village planétaire.

Que pourra signifier cette rencontre pour l’Eglise au Vietnam ?

La rencontre des Evêques d’Asie qui se tiendra au Vietnam est pour les catholiques vietnamiens l’opportunité de s’unir à des fidèles de toute l’Asie afin de partager avec eux une expérience et le témoignage de la Parole de Dieu mais aussi de porter un message d’amour en Asie. Ce sera l’occasion d’annoncer l’Evangile du Christ afin que tous soient unis comme une unique famille, afin que puisse se construire une culture de la vie et une civilisation de l’amour pour les peuples asiatiques.

Que suggérez-vous aux fidèles pour se préparer à l’événement ?

Dans l’attente de cet événement important, chaque prêtre, religieux, laïc de chacun des Diocèses devra faire deux choses : tout d’abord prier parce que la prière est la clef de toute œuvre, en demandant que l’Esprit Saint concède la lumière et la force pour faire la volonté du Père céleste afin que tous les peuples puissent avoir la grâce en abondance et puissent se fortifier. Ensuite de quoi, nous devrons chercher à être unis et en communion. Nous sommes appelés à dépasser « la culture de mort » dans une société affligée par les injustices, par le clivage entre les riches et les pauvres, par des maux sociaux dévastateurs tels que l’avortement, le SIDA, les violences sexuelles, l’abandon des enfants. Nous chrétiens voulons construire une civilisation de l’amour, vaincre ses maux, promouvoir la culture de la vie pour les génération présentes et futures.

Comment avez-vous accueilli la nomination du Nonce apostolique « Représentant pontifical non résident » pour le Vietnam ?

J’ai pu exprimer à Benoît XVI la conviction que le représentant stable du Pape apportera une nouvelle espérance au peuple vietnamien. J’espère que le Saint-Siège pourra aider le Peuple de Dieu au Vietnam à faire resplendir la Vérité et l’Amour du Christ au travers d’un dialogue persévérant et de la collaboration avec tous les citoyens : enseignants, intellectuels, riches, pauvres, autorités civiles et membres d’autres religions. De cette manière s’ouvrira devant le peuple vietnamien la route permettant de dépasser les limites et les divergences, les crises, les mécontentements et les injustices pour assurer à la nation la stabilité et la prospérité. Je crois que tout pays et tout peuple a besoin de la lumière de la Vérité et de l’Amour pour sa vie et pour un développement durable.


(Theo website Phạm Minh Mẫn)

Ngày 12/8: Thánh Gioanna Phanxica Chantal


Gioana Phanxica Fremyet chào đời ngày 23.01.1572 ở Dijon, là con của vị chủ tịch nghị viện. Thuộc một gia đình công giáo đạo đức, ông đã đào tạo con gái của mình nên một đứa trẻ có đời sống tín hữu mạnh mẽ. Học tập như các trẻ em khác, thánh nữ có một tinh thần sống động và tỏ ra vừa vui tươi vừa đứng đắn. Dầu còn nhỏ, Gioana Phanxica quyết xa rời những người lạc đạo, ngài la hét khi có ai trong số họ chạm tới ngài. Khi đến tuổi hoà mình với đời sống đài các, sự dè giữ của thánh nữ chứng tỏ ngài đã không ao ước một cuộc sống dễ dãi trống rỗng. Một trong những nhiệt huyết nơi ngài là được thực hiện những công trình lớn cho Thiên Chúa: Ngài muốn được tử đạo. Ngài đã phát khóc khi thấy những người khốn cực, ngài nói:

St. Jane de Chantal

St. Jane de Chantal

- “Nếu không yêu thương người nghèo, tôi thấy mình như không yêu mến Thiên Chúa”.

Vị bá tước De Chantal thấy rằng: Gioana Phanxica sẽ là người vợ quí nhất trên thế gian. Cuộc hôn nhân hoàn tất. Gioana Phanxica lúc ấy 20 tuổi trở thành Gioana de Chantal. Buổi đầu, vị nữ bá tước trẻ lo âu vì những món nợ cũ phải thanh toán. Nhưng Gioana đã vui cười bắt tay vào việc. Ngài chỗi dậy từ 5 giờ sáng, dự thánh lễ, dùng ngựa để đi thăm nông trại và đất đai, kéo sợi và may vá với những người giúp việc, ngài tỏ ra là một người quản lý danh tiếng, đồng thời cũng rất bác ái và dễ yêu đến nỗi người ta gọi ngài là “bà phúc hậu”. Có người còn nói rằng: mình thích mang bệnh để được nữ bá tước viếng thăm, nhưng ngài cũng biết rằng: săn sóc và mỉm cười chưa đủ, phải có Chúa giúp sức. Chẳng hạn đến với một bệnh nhân xem như tuyệt vọng, ngài thức đêm cầu nguyện và đến sáng thì bệnh nhân được lành. Vị bá tước nhiều lần thấy người vợ đầy lòng bác ái quì cầu nguyện.

Khi xảy ra nội chiến, cảnh khốn cùng lan rộng cắp làng quê. Vị nữ bá tước đón tiếp các người bị bỏ rơi. Bệnh tật và các trẻ sơ sinh. Đoàn người thiếu ăn trong vòng bảy dặm tuôn đến, ngài tự tay múc cháo phục vụ mọi người. Thấy người đã được trợ cấp trở lại, Nnài không từ chối giúp đỡ họ và thưa với Chúa:

- “Con đến gõ cửa van xin lòng thương xót của Chúa, nào là con có muốn đến lần thứ hai thứ ba mà bị xua đuổi đâu?”

Bá tước de Chantal là một sỹ quan, thường vắng mặt để phục vụ nhà vua nơi triều đình hay trong quân đội. Khi ấy thánh nữ bỏ đồ trang sức và áo nhung, tự khép mình với sáu người con và các việc nội trợ, dành nhiều thời gian hơn để cầu nguyện. Khi bá tước trở về, ngài tổ chức ăn mừng với nét mặt rạng rỡ vui tươi. Hạnh phúc chiếu sáng tổ ấm gia đình.

Nhưng trong một cuộc đi săn, bá tước bị tử thương. Người vợ trẻ thành góa bụa lúc 28 tuổi, đã đau đớn khóc lóc:

- “Lạy Chúa, xin hãy cất đi mọi của cải và con cái, nhưng xin để lại người chồng yêu quí mà Chúa ban cho con”.

Dầu vậy, trong cơn thất vọng, thánh nữ đã điều khiển được lòng mình và tìm vâng theo thánh ý Chúa. Gioana Phanxica phải từ giã lâu đài để về sống gần cha chồng. Những người nghèo vây quanh xe ngài khóc lóc vì họ đã mất người mẹ hiền. Một cảnh huống nặng nề đang đợi Gioana nơi nhà cha chồng. Người quản gia già nắm mọi quyền bính, bắt ngài nuôi nấng con cái bà với con cái của thánh nữ. Người đàn bà trẻ đã cố gắng để khỏi bị chống đối, Ngài luôn hiền hậu và không hề làm cha chồng nổi nóng. Ngài cũng tổ chức một phòng thuốc cấp cứu và săn sóc người nghèo. Bảy năm trôi đi trong nếp sống khó khăn và hãm mình.

Năm 164, Gioana Phanxica gặp thánh Phanxicô Salesiô. Vị thánh quyết định đời ngài. Thánh nhân giảng mùa chay tại Dijon và nhận thấy thánh nữ chăm chú nghe mình. Ngài hỏi thánh nữ có ý định tái giá không? Thánh nữ trả lời: Không!

Và thánh nhân đã trả lời:- “Vậy phải kéo bảng hiệu xuống”. Chỉ muốn Chúa thôi, đừng làm dỏm, dẹp bỏ tất cả chi tiết phong lưu lẫn lòng kiêu hãnh.

Gioana tự lo cho mình, phục vụ người nghèo, lau rửa những người khốn klhổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ cho họ rồi nấu giặt và vá mạng áo quần cho họ. Thánh Phaxicô Salesiô dẫn ngài tới sự thánh thiện bằng đời sống ngày càng kết hiệp sâu xa hơn với Chúa. Thánh nhân cũng quả quyết rằng: thời giờ đã đến để thánh nữ từ bỏ thế gian. Đường chân thực của thánh nữ là trở nên tu sĩ và thiết lập dòng thăm viếng.

Gioana đã anh hùng từ giã gia đình, ngài dẫn người con gái không lập gia đình là Fracoise để bổ túc việc giáo dục bên cạnh ngài. Người con trai ở lại với ông nội đã chống lại việc ngài ra đi và nằm ngang cửa ngăn cản. Cử chỉ của thánh nữ không theo tầm mức của chúng ta: Gioana lau nước mắt bước qua mình con. Ngài biết rằng: con mình sẽ không bị bỏ rơi, vì ngài đã trao phó cho người cậu là Tổng Giám mục Bourges. Và mỗi khi cần đến, ngài sẽ đi thăm để lo cho lợi ích của các con.

Tháng 6 năm 1610, thánh nữ đã thiết lập tu viện dầu tiên ở Annecy và khẩn nguyện luôn thực hiện điều gì xem ra hoàn hảo hơn. Danh tiếng của các nữ tu dòng Thăm Viếng tận tâm phục vụ người nghèo, bệnh nhân và giáo dục các thiếu nữ lan rộng mau chóng. Suốt 30 năm, mẹ De Chanltal đã thiết lập nhiều tu viện, hiến mình làm mọi việc. Vào cuối đời, ngài kể lại:

- “Tôi như những nữ tá thô kệch thời thu hoạch. Người cha gia đình nói với họ: hãy đến chỗ này, hãy đi chỗ nọ, hãy trở lại cánh đồng này, hãy đi tới chỗ khác. Chẳng hạn người cha diễm phúc của chúng tôi đã nói: hãy đi thiết lập ở Lyon, ở Grenoble, hãy trở lại để đi Bourges, hãy đi Paris, hãy từ giã Paris và trở lại Dijon. Chẳng hạn nhiều năm tôi chỉ đi và đến, khi thì ở một trong những cánh đồng, khi thì ở một nơi khác của cha thân yêu”.

Nơi nào thánh nữ đi qua, ngài đều để lại sự êm dịu, sự phấn khởi và niềm tin tưởng. Người ta thấy ngài chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui và can đảm. Linh động trong công việc, ngài nấu ăn và coi bò, giờ giải trí, ngài vui vẻ với các nữ tu… khiến họ nói: “Khi mẹ chúng ta không giải trí được là thiếu một phần vui tươi êm ái”. Bệnh tật không ngăn cản được ngài săn sóc và nghĩ tới mọi sự. Với một trí khôn nhanh nhẹn và chính xác, một lúc, ngài đọc cho 3 nữ tu.

Mười chín năm trước khi qua đời, Gioana de Chantal mất người bạn, người cha, người nâng đỡ là thánh Phanxicô Salesio. Sự đau đớn của Ngài thực sự lớn lao. Rồi đến cái chết của người con trai để lại một cháu gái sẽ là nữ nam tước de Sévigné. Các tang lễ liên tiếp nơi các người thân. Nhưng thử thách lớn lao nhất của thánh nữ là những chán nản nội tâm, những cám dỗ kinh khủng nghịch lại đức tin. Ngài không hề tỏ lộ những đau đớn của mình và lấy sự bình thản để phủ lấp những lo âu. Mẹ de Claugy đã nói về những khô khan liên tục của ngài:

- “Chỉ trong cõi đời đời, người ta mới biết hết được”.

Khi ngài qua đời, cha giải tội nói:

- “Suốt 23 năm, tôi đã thán phục nơi thánh nữ một lương tâm tinh ròng trong suốt và rõ rệt hơn cả pha lê”.

Trong những hành trình cuối cùng, mẹ De Chantal được reo mừng khắp nơi. Khi có dịch hạch ở Annecy, ngài đã không từ chối bỏ nơi này và tăng gấp các việc bố thí và lời cầu nguyện . Ở St. Germain, hoàng hậu đưa hai người con tới gặp và xin ngài chúc lành. Ngài hân hạnh được gặp thánh Vinh-sơn Phaolô. Dân Paris chen lấn để mong chạm tới ngài và nghe ngài nói. Trở về, ngài ngã bệnh ở Monlins. Tới phút cuối ngài vẫn còn lo lắng đến mọi việc. Và sau 3 lần kêu danh Chúa Giêsu, ngài tắt thở năm 1641 và đến năm 1767 ngài được phong thánh.

Xin thánh nữ chuyển cầu ơn Chúa xuống trên đời sống tín hữu chúng con, đặc biệt là việc yêu thương những người đang trong tình trạng nghèo khổ về tinh thần và thể chất.

(Tổng hợp)


(Theo website Phạm Minh Mẫn)

Thứ Tư, 10 tháng 8, 2011

Ngày 11/8: Thánh Clara, Đồng Trinh


Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria, thuộc dòng họ danh giá Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.

Thánh Clara

Thánh Clara

Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rời ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncula… Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em, Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly biệt của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Beneđictô gần đó.

Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ông Monaldo, cậu thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara, và cộng đoàn đã tăng số một tu viện tại San Đamianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ. Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêđictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.

Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Damianô, nơi Phanxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porsiuncula và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài .

Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô:

- Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo Lời Chúa.

Năm 1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo tuyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.

Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời:

- Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.

Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, ngài nói với mình:

- Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.

Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng 8 năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.

Thánh nữ Clara đã vì Chúa mà bất chấp tất cả những khó khăn, những cản ngăn…để được toại nguyện với ơn gọi dâng hiến. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết noi gương thánh nữ sống trọn vẹn cho tình yêu Chúa Kitô bằng việc mau mắn đáp lại lời mời gọi của Ngài.

(tổng hợp)


(Theo website Phạm Minh Mẫn)

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

Ngày 10/8: Thánh Laurensô, Phó Tế Tử Đạo


Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.

Thánh Laurensô

Thánh Laurensô

Laurensô là ai mà được tôn kính cách đặc biệt như vậy ?

Thánh Laurensô sinh tại Huescô nước Tây Ban Nha. Cha mẹ ngài là những người đạo hạnh. Ngài sớm từ biệt quê hương thân yêu để đi du học bên Rôma và đã sống trót cuộc đời trần thế tại đây. Ngài được chọn thành một trong bảy phó tế của giáo hội chịu trách nhiệm giúp đỡ người nghèo túng và ngài được giao cho trách nhiệm “quản lý tài sản của giáo hội”. Khi sự cấm đạo dưới thời hoàng đế Valerian bùng nổ, Thánh Giáo Hoàng Sixtus bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế khác. Khi Đức Giáo hoàng bị điệu ra pháp trường, Laurensô đi theo khóc lóc nức nở, ngài hỏi: “Cha ơi, cha đi đâu mà không cho nô bộc này theo?”. Ðức giáo hoàng trả lời: “Con ơi, ta không bỏ con đâu. Trong ba ngày nữa, con sẽ theo ta.” Nghe thấy thế, Laurensô thật vui mừng, ngài về phân phát hết tiền của trong kho cho người nghèo, và còn bán cả các phẩm phục đắt tiền để có thêm của cải mà phân phát.

Khi những điều này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh. Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn khôi hài nói với hoàng đế:

- Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn!

Sau đó ngài cầu xin cho thành phố Rôma được trở lại với Ðức Kitô và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới. Ngài lãnh nhận triều thiên tử đạo vào năm 258.

Thánh Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo Hội, hết lòng yêu thương người nghèo. Xin cho mỗi chúng ta cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân. Trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu thiệt thòi về phần xác.

(tổng hợp)


(Theo website Phạm Minh Mẫn)

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2011

Suy Niệm Chúa nhật 15 Thường niên A : Hạt giống Lời Chúa


15th Sunday in Ordinary Time

Reading I: Isaiah 55: 10-11 II: Romans 8: 18-23

CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN A

Bài Đọc I: Isaia 55: 10-11; II: Rm 8:18-23

Gospel

Matthew 13:1-23

1 That same day Jesus went out of the house and sat beside the sea.

2 And great crowds gathered about him, so that he got into a boat and sat there; and the whole crowd stood on the beach.

3 And he told them many things in parables, saying: “A sower went out to sow.

4 And as he sowed, some seeds fell along the path, and the birds came and devoured them.

5 Other seeds fell on rocky ground, where they had not much soil, and immediately they sprang up, since they had no depth of soil,

6 but when the sun rose they were scorched; and since they had no root they withered away.

7 Other seeds fell upon thorns, and the thorns grew up and choked them.

8 Other seeds fell on good soil and brought forth grain, some a hundredfold, some sixty, some thirty.

9 He who has ears, let him hear.”

10 Then the disciples came and said to him, “Why do you speak to them in parables?”

11 And he answered them, “To you it has been given to know the secrets of the kingdom of heaven, but to them it has not been given.

12 For to him who has will more be given, and he will have abundance; but from him who has not, even what he has will be taken away.

13 This is why I speak to them in parables, because seeing they do not see, and hearing they do not hear, nor do they understand.

14 With them indeed is fulfilled the prophecy of Isaiah which says: ‘You shall indeed hear but never understand, and you shall indeed see but never perceive.

15 For this people’s heart has grown dull, and their ears are heavy of hearing, and their eyes they have closed, lest they should perceive with their eyes, and hear with their ears, and understand with their heart, and turn for me to heal them.’

16 But blessed are your eyes, for they see, and your ears, for they hear.

17 Truly, I say to you, many prophets and righteous men longed to see what you see, and did not see it, and to hear what you hear, and did not hear it.

18 “Hear then the parable of the sower.

19 When any one hears the word of the kingdom and does not understand it, the evil one comes and snatches away what is sown in his heart; this is what was sown along the path.

20 As for what was sown on rocky ground, this is he who hears the word and immediately receives it with joy;

21 yet he has no root in himself, but endures for a while, and when tribulation or persecution arises on account of the word, immediately he falls away.

22 As for what was sown among thorns, this is he who hears the word, but the cares of the world and the delight in riches choke the word, and it proves unfruitful.

23 As for what was sown on good soil, this is he who hears the word and understands it; he indeed bears fruit, and yields, in one case a hundredfold, in another sixty, and in another thirty.”

Phúc Âm

Matthêu 13:1-23

1 Hôm ấy, Đức Giêsu từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ.

2 Có đám đông lớn tụ họp bên Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn toàn thể đám đông thì đứng trên bờ.

3 Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói : “Kìa người gieo giống ra đi gieo giống.

4 Trong khi người ấy gieo,thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất.

5 Có những hạt rơi trên sỏi đá, chổ không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu;

6 nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rể nên bị chết khô.

7 Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt.

8 Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gâp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục.

9 Ai có tai thì nghe”.

10 Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?

11 Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.

12 Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.

13 Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu

14 Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy.

15 Vì lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.

16 “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe.

17 Quả thế, Thầy bảo thật anh em. nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe , mà không nghe.

18 “Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống.

19 Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỵ dử đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ đã được gieo bên vệ đường.

20 Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận.

21 Nhưng nó không đâm rể mà là kẻ nhất: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay.

22 Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời, và bả vinh quang phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì

23 Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục”.

Interesting Details

• Despite the traditional title as the parable of “the sower”, the real focus is on the seeds and their respective yields.

• The assumption is that all the seeds are good, the problem is the type of soil in which the seeds have been sown.

• There is a clear contrast between the ideal disciples who accept and understand the word against those who neither accept nor act upon Jesus’ preaching for various reasons: evil activity, personal shallowness, worldly concerns, or desire for wealth.

• According to the traditional Palestinian farming practices, sowing often precedes plowing. We can assume that the sower intended to come back and plow the seeds into the soil. Nevertheless when the seeds already fall on the bad soil they still cannot yield fruitfully even with plowing.

• Mt 13:1-52 features seven parables, the subject matter of the parables is the kingdom of heaven. Every parable except the parable of the sower begins with the phrase: “The kingdom of heaven is like…” However the parable of the sower also clearly shows responses to the kingdom of heaven.

Chi Tiết Hay

• Mặc dầu truyền thống vẫn gọi đề tài của dụ ngôn là “người gieo giống,” nhưng chủ yếu là hạt giống và những hoa lợi thu hoạch được.

• Hạt giống tất nhiên hoàn hảo, đất để gieo mới là vấn đề.

• Có một sự khác biệt rõ ràng giữa các tông đồ lý tưởng đón nhận và hiểu Lời Chúa, và những kẻ không đón nhận hoặc hành động theo lời Chúa Giêsu dạy vì nhiều lý do: ma quỵ, hời hợt, lo lắng sự đời và vinh quang phú quý.

• Theo truyền thống canh nông của người Palestine thời đó, gieo giống thường trước khi cày. Vì vậy người gieo giống có thể sẽ trở lại để cày cho hạt giống cắm sâu xuống đất. Tuy nhiên khi hạt giống đã rơi vào đất xấu thì dầu có cày cũng vẫn không thâu hoạch được gì.

• Chương 13 (Mt 13:1-52) trong Phúc Âm thánh Matthêu gồm có bảy dụ ngôn, chủ yếu là giải thích về Nước Trời. Mỗi dụ ngôn đều bắt đầu bằng câu: “Nước Trời giống như…” ngoại trừ dụ ngôn người gieo giống. Dầu vậy dụ ngôn người gieo giống cũng cùng một chủ đích là trình bày những lối đáp trả của mỗi người về Nước Trời.

One Main Point

The word of the Lord is the seed, our hearts and minds are the soil. The good spiritual yield in life depends on how much a person willingly accepts and responds to the word of the Lord. The yield arising from the positive response will be abundant beyond all imagination.

Một Điểm Chính

Lời Chúa là hạt giống, tâm trí chúng ta là đất để gieo. Thành quả tốt đẹp trong đời sống tinh thần tùy thuộc thiện chí mỗi người đáp lại tiếng Chúa. Kết quả gặt hái từ thái độ tích cực đáp trả thì dồi dào ngoài sức tưởng tượng.

Reflections

1. Deep down in my heart, where do I fit in with the four types of soil in the parable? What are the reasons?

2. In order to let Jesus’ word yield abundantly in my spiritual life, what changes do I have to make in my relationship to God and to others, in my interest, and in my career?

3. Imagine I am attending a Sunday’s Mass, a priest is delivering a sermon as a sower is sowing the seeds, my ear and my mind is listening to the word as the soil is receiving the seeds. Am I prepared to receive the word? How much do I absorb? Do I still vividly remember the word after leaving the Mass? A week after? How can I become the good soil ready to receive the word?

Suy Niệm

1. Tự đáy lòng mình, tôi thuộc loại người nào trong bốn loại đất đề cập trong dụ ngôn? Vì lý do gì?

2. Để Lời Chúa sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống tinh thần, tôi cần thay đổi những gì trong liên hệ với Chúa và tha nhân, trong sở thích, trong nghề nghiệp?

3. Hãy tưởng tượng tôi đang dự thánh lễ Chúa Nhật, vị linh mục đang giảng ví như người đi gieo giống, và tôi đang dùng tai và trí để lắng nghe cũng giống như mảnh đất chờ hạt giống. Tôi có sửa soạn để đón nhận lời giảng không? Tôi thâu nhận được bao nhiêu? Tôi còn nhớ gì không khi ra về? Một tuần sau đó? Làm thế nào để tôi trở thành đất tốt luôn sẵn sàng đón nhận?

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN – A

Lời Chúa: Is. 55, 10-11; Rm. 8, 18-23; Mt. 13, 1-23

Chúa nhật 15 Thường niên A

Chúa nhật 15 Thường niên A

MỤC LỤC

1. Gieo giống

2. Tâm tình người đi gieo – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

3. Nghe và hiểu

4. Kho báu đã mở – Charles E. Miller

5. Mở tai, mở mắt – Achille Degeest

6. Hạt giống Lời Chúa

7. Luôn luôn gặt hái kết quả

8. Hạt giống Lời Chúa – R. Veritas

9. Nghe giảng

10. Hạt giống và người gieo giống

SUY NIỆM

1. Gieo giống

Nói về việc rao giảng lời Chúa, chúng ta thấy có hai thực tại đối kháng nhau. Trước hết chúng ta xác tín lời Chúa là lời hiệu nghiệm, một khi đã gieo trồng thì chắc chắn sẽ đem lại mùa xuân với hoa trái dồi dào. Đàng khác là sự chai cứng của những tâm hồn, khiến cho cuộc sống cứ chìm trong tội lỗi và mùa đông ảm đạm cứ kéo dài tưởng chừng như vô tận.

Thực vậy, giữa lòng cuộc đời ồn ào và náo nhiệt này, nhiều khi lời rao giảng chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và người nói chỉ thấy vọng lại chính âm điệu của mình và không có một người đáp trả. Cuộc sống hình như vẫn bước đi theo nhịp điệu riêng của nó, vẫn được lượng giá bằng cái thước đo quen thuộc của nó. Cảm giác ấy gắn liền với sự cô đơn của người rao giảng. Cô đơn vì không một ai chia sẻ nỗi thao thức với mình. Từ nỗi cô đơn ấy, người ta dễ dàng buông xuôi, chán nản và tuyệt vọng.

Thế nhưng, lời Chúa lại không cho phép chúng ta được đánh mất niềm tin. Bởi vì đánh mất niềm tin là đánh mất sứ vụ gieo rắc Tin Mừng, là đánh mất sự sống đem lại niềm vui và sự hăng say cho những bước chân truyền giáo. Đánh mất đức tin là đánh mất cả cái lý do hiện hữu của Giáo Hội trong lòng thế giới.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo Figaro, Đức Hồng Y Paul Poupard, chủ tịch văn phòng đối thoại với những người không tin, đã nhìn nhận cuộc hành hương của 500.000 người trẻ về quảng trường Compostellos như biểu tượng cho nỗi khát vọng và sự tìm kiếm những giá trị tâm linh. Con người không thể sống mà lại không nhìn nhận một chiều kích tâm linh siêu việt trong đời mình. Người ta loan báo Thượng Đế đã chết, nhưng hôm nay người ta lại nhìn nhận sự hiện diện sống động của Ngài ngay giữa lòng những xã hội tục hoá hay vô tín ngưỡng. Đồng thời ĐHY cũng nhìn vào sự xuất hiện của nhiều giáo phái huyền bí hiện nay như một thách đố cho Giáo Hội. Khi những khát vọng tôn giáo hay không tìm được lời giải đáp nơi Giáo Hội thì người ta sẽ lần đến những giáo phái khác. Vì thế, sau thách đố của chủ nghĩa vô thần, là thách đố về mục vụ đối với Giáo Hội hôm nay. Chính Công đồng Vat. II cũng đã xác quyết: Người tín hữu phải chịu trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh ra chủ nghĩa vô thần. Phải nói rằng họ che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.

Chúng ta có thể than phiền vì người đời không đón nhận Tin Mừng. Thế nhưng trước khi than phiền, chúng ta cũng cần phải tự hỏi: Tôi đã thực sự rao giảng lời Chúa, hay mới chỉ là rao giảng những suy nghĩ, những lập trường của cá nhân tôi. Hay chỉ cố thuyết phục bằng sự khôn ngoan theo cái thước đo thiếu hụt của thế gian chứ chưa phải là những chân lý Phúc Âm ngàn đời dịu mát. Chúng ta nên nhớ sức mạnh đích thực là sức mạnh của lời Chúa chứ không phải là sức mạnh của chúng ta. Nếu không, cả những lúc xem ra thành công, thì cũng chỉ nhất thời, hời hợt mà thôi.

Đồng thời lời Chúa là lời sống động. Lời đó không phải chỉ là ngôn từ mà còn phải trở thành những hành động. Vì thế, trước khi than phiền về sự lãnh đạm của người đời đối với lời Chúa, chúng ta cần phải tự hỏi xem: Chính bản thân chúng ta đã đón nhận lời Chúa ra sao? Và lời Chúa đã phát sinh những hậu quả nào trong mảnh đất là cuộc đời chúng ta? Khi cuộc sống chúng ta đã thấm nhuần tinh thần lời Chúa, thì tự bản chất, cuộc sống ấy đã là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của lời Chúa và trở nên một sự rao giảng sống động, một cách tay tung gieo hạt giống Nước Trời trong lòng trần thế.

2. Tâm tình người đi gieo – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Bài dụ ngôn thật đẹp. Đẹp về hình ảnh phong phú. Đẹp về ý nghĩa sâu xa. Nhưng đẹp nhất vẫn là thái độ của người đi gieo. Người đi gieo đã có thái độ vừa hào phóng vừa kiên trì, vừa hy vọng vừa yêu thương.

Người đi gieo đã gieo một cách hào phóng. Hãy nhìn kìa: ông vốc từng vốc lớn hạt giống và rộng tay vung vãi. Ông gieo không tiếc xót. Ông gieo không tính toán. Ông gieo không loại trừ. Những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ nhận được hạt giống đã đành. Cả đến những mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi một mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp chốn.

Người đi gieo đã gieo một cách kiên trì, ông gieo bất kể ngày đêm. Ông gieo bất kể mưa nắng. Ông gieo bất kể những thất bại. Đợt gieo giống đầu tiên đã thất bại vì chim chóc tha đi, ông liền gieo tiếp đợt hai. Bị sỏi đá nắng hạn, cây lúa mất mùa, ông lại đi gieo tiếp đợt thứ ba. Bị gai góc bóp nghẹt, cây lúa bị lụi tàn, ông vẫn không nản, cứ gieo đợt thứ tư. Ông đúng là người đi gieo hạt không biết mỏi mệt.

Người đi gieo đã gieo trong niềm hy vọng. Niềm hy vọng của ông thật lớn lao. Chính với niềm hy vọng ấy, ông đã dám đầu tư tất cả tiền bạc, sức khỏe, thời giờ vào việc gieo hạt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông đủ sức mạnh vượt qua những khó khăn, đứng vững trước những thất bại. Vì hy vọng, ông gieo cả trên lối đi, trên đá sỏi, trong cỏ gai. Ông tin rằng có gieo thì có gặt. Chính niềm hy vọng ấy đã giúp ông kiên trì và sau cùng đi đến thành công.

Người đi gieo đã gieo trong tình thương yêu. Tình thương yêu của ông dạt dào lắm. Nên ông đã không ngại hao tốn tiền của, tâm trí, sức lực. Tình thương ấy bao la lắm. Nên ông động lòng thương đến cả những mảnh đất chai cứng, đá sỏi, gai góc. Tình yêu thương ấy mãnh liệt lắm. Nên ông mong sẽ cảm hoá được cả gai góc, sỏi đá, biến chúng thành đất màu mỡ phì nhiêu. Ông đã có thể chỉ chọn đất tốt mà gieo. Nhưng tình thương yêu mãnh liệt không cho phép ông làm thế. Vì ông không muốn loại trừ những miền đất chai cứng chứa đầy sỏi đá, cỏ gai.

Người đi gieo chính là Thiên Chúa hiện thân trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã gieo trong yêu thương. Yêu thương đến độ chính Người lại trở nên một hạt giống,chịu vùi chôn, chịu mục nát để biến cải những mảnh ruộng gai góc, sỏi đá thành màu mỡ phì nhiêu, mong một mùa gặt đầy những bông lúa chín vàng trĩu nặng.

Thiên Chúa là người đi gieo không biết mệt mỏi. Chúa Giêsu là người đi gieo say mê đến quên chính cả bản thân mình. Người muốn cho các môn đệ của Người tiếp tục công việc gieo Tin Mừng đi khắp mọi nơi.

Hôm nay Người muốn ta gieo một cách hào phóng. Hãy gieo không xẻn xo. Hãy gieo không tính toán. Hãy gieo không loại trừ. Hãy biết dùng mọi phương tiện hiện đại nhất để chuyên chở Tin Mừng. H ãy đem Tin Mừng tới mọi lãnh vực của đời sống. Hãy đem Tin Mừng tới tất cả mọi hạng người không loại trừ một ai.

Người cũng muốn ta kiên trì gieo hạt Tin Mừng. Hãy kiên trì như thánh Phaolô, cứ gieo dù gặp “thời thuận lợi hay không thuận lợi”. Hãy cứ gieo dù đá sỏi, chông gai. Hãy cứ gieo dù những thất bại, nhọc nhằn.

Nhưng điều Người mong chờ nhất là các môn đệ của Người hãy đi gieo yêu thương. Yêu thương không chỉ những mảnh đất phì nhiêu, nhưng yêu thương cả những mảnh đất sỏi đá, gai góc. Yêu thương không chỉ những người mình thương và những người thương mình mà còn yêu thương cả những người không ưa mình và mình không ưa: vì một tình yêu thương đích thực thì không loại trừ ai. Chỉ có tình yêu thương mãnh liệt như thế mới cảm hoá được cỏ gai, làm mềm được đá sỏi, biến tất cả thành màu mỡ phì nhiêu.

Đáp lời Chúa mời gọi, biết bao lớp người đã hăng hái ra đi gieo Tin Mừng tại vùng đất Lạng Sơn này.

Trong số đó phải kể đến Đức cố Giám mục Vinh Sơn Phaolô của chúng ta. Người đã là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Qua bao ngày tháng, Ngài vẫn kiên trì không bao giờ chồn chân mỏi gối. Hôm nay Ngài đã trở thành một hạt giống vùi sâu trong lòng đất. Hạt giống ấy, tình thương ấy, sẽ làm mềm sỏi đá, hứa hẹn cho ta một mùa gặt bội thu.

Ta cũng không thể nào quên được công ơn của Đức Hồng Y Phaolô Giuse, cũng là một người đi gieo không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu với gánh nặng của Giáo phận Hà Nội và của Giáo hội Việt Nam, Ngài vẫn sẵn sàng ghé vai gánh đỡ Lạng Sơn trong những lúc cần thiết. Ngài đã gieo mồ hôi nước mắt làm phì nhiêu cánh đồng này. Công khó ấy chắc chắn sẽ góp phần rất lớn cho một mùa gặt mai sau.

Hôm nay, Chúa gởi tôi đến cánh đồng Lạng Sơn này. Lạng Sơn là quê hương tôi. Anh chị em đã đón nhận tôi như đón một người thân. Chúng ta thuộc về một gia đình. Hôm nay Chúa mời gọi tất cả chúng ta vào làm việc trong cánh đồng của Chúa. Chúng ta hãy hăng hái bắt tay vào việc đi gieo Lời Chúa. Hãy noi gương Chúa Giêsu, hào phóng, gieo kiên trì, gieo hy vọng và nhất là hãy gieo yêu thương. Gieo gì gặt nấy. Nếu ta gieo bác ái chắc chắn ta sẽ gặt được yêu thương, một mùa yêu thương tràn ngập trên núi đồi Lạng sơn- Cao bằng này.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Thiên Chúa không ngừng gieo Lời Chúa vào tâm hồn bạn. Bạn đã đón nhận Lời Chúa thế nào?

2- Thái độ của người đi gieo cho bạn cảm nghiệm gì về Thiên Chúa?

3- Chúa mời gọi bạn đi gieo Tin Mừng. Bạn phải có thái độ nào?

3. Nghe và hiểu (Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Dụ ngôn người gieo giống đầy tính lạc quan, hy vọng. Đức Giêsu gieo hạt giống Lời Chúa khắp nơi.

Có hạt bị chim trời ăn mất, khi chưa kịp nảy mầm. Có hạt bị khô cháy khi chưa bám rễ. Có hạt đã thành cây, nhưng bị gai làm chết ngạt.

Thực tế đau buồn ấy làm nản lòng nhiều người. Đức Giêsu đã gặp biết bao chống đối và thất bại. Ngài có thật là Đấng được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Nước Trời trên trần gian không? May thay có những hạt rơi vào đất tốt, và đem lại kết quả gấp bội.

Nhìn vào khuôn mặt của Giáo Hội hôm nay, nhiều người thất vọng trước những khó khăn, khủng hoảng. Đức Giêsu khuyên ta hãy vững lòng. Lời Chúa vẫn còn gặp được mảnh đất phì nhiêu.

Dụ ngôn người gieo giống đòi chúng ta phải xét mình: Có bao hạt Lời Chúa được gieo vào lòng tôi? Đâu là số phận của chúng?

Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên mặt đường. Tôi nghe mà không hiểu. Không hiểu vì không muốn hiểu, vì cố tình né tránh, bởi lẽ Lời Chúa đòi tôi hoán cải và từ bỏ mình. Thế là Lời Chúa trượt đi như nước đổ lá khoai.

Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trên đất đá. Tôi vội vã, hớn hở đón lấy ngay, nhưng chỉ dừng lại ở bề mặt hời hợt. Lời Chúa không đâm rễ sâu trong mảnh đất đời tôi. Khi thử thách gay gắt của cuộc sống ập đến, tôi té nhào và bỏ cuộc, chẳng dám sống Lời Ngài.

Có hạt rơi vào lòng tôi như rơi trong bụi gai. Bụi gai là nỗi lo âu chuyện đời, là đam mê của cải. Bụi gai bóp nghẹt, làm cây Lời Chúa không sinh trái.

Có hạt rơi vào long tôi như rơi vào đất tốt. Tôi nghe và hiểu. Tôi hiểu được là nhờ dám sống Lời Chúa trong đời. Chỉ ai hiểu nhờ sống mới đem lại mùa bội thu.

Dụ ngôn trên đòi tôi xét lại thái độ nghe Lời Chúa, đòi tôi cải tạo lại mảnh đất lòng mình. Có biết bao gai góc, đá sỏi trong mảnh đất đời tôi. Có bao hạt giống bị mất mát vì tôi từ khước. Nếu tôi dám để cho một câu Lời Chúa tự do lớn lên thì đời tôi sẽ hoàn toàn thay đổi.

Hôm nay, tôi được mời gọi đi gieo hạt. Nhưng trước hết, tôi cần được Lời Chúa biến đổi, cần hiểu sâu nhờ dám sống Lời Chúa tận căn. Xin Chúa giúp tôi tìm ra những lối gieo mới, để Lời Chúa sai trái hơn trong thế giới hôm nay.

Gợi Ý Chia Sẻ

• Theo ý bạn, đâu là những trở ngại, từ bên ngoài cũng như từ bên trong, khiến hạt giống Lời Chúa khó nẩy mầm và lớn lên trong bạn?

• Có khi nào bạn mê một câu Lời Chúa không? Có khi nào bạn dám sống một câu Lời Chúa không? Có khi nào đời bạn đã hoàn toàn đổi khác, vì bạn gặp được một câu Lời Chúa không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay. Chúng con thường xây nhà trên cát, vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy, nhưng lại không dám đem ra thực hành. Chính vì thế Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.

Xin cho chúng con đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa, đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.

Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình, để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng trưởng.

Ước gì ngôi nhà đời chúng con được xây trên nền tảng vững chắc, đó là Lời Chúa, Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.

4. Kho báu đã mở – Charles E. Miller (Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)

Không một nông dân nào thích thú bởi cảnh gieo giống lãng phí hạt giống như người nông phu trong bài Phúc âm hôm nay. Một nông dân cần cù thì sẽ gieo cẩn thận ở những nơi mà ông bảo đảm sẽ gặt hái được vụ mùa bội thu. Nhưng người nông dân trong Phúc âm thì phung phí những hạt giống, nhờ đó ông giới thiệu Thiên Chúa là Đấng luôn luôn quảng đại ban phát những hồng ân của Người.

Những hạt giống được giới thiệu đây là Lời Chúa, Lời ấy được tìm thấy trong những trang được linh ứng trong Thánh Kinh. Có bốn mươi sáu cuốn trong Cựu ước và hai mươi bảy cuốn trong Tân ước. Thiên Chúa gieo những hạt giống của Người vào trong tâm trí chúng ta và trong lòng của chúng ta trước, bởi ý nghĩa của Phụng vụ Lời Chúa trong khi cử hành thánh lễ.

Theo phụng vụ trước đây, những bài đọc thường được dùng hàng năm và thế là không thể giới thiệu được kho tàng phong phú của Thánh Kinh. Một hậu quả của việc xếp đặt như thế là một số lớn những đoạn súc tích rất hay không bao giờ được những người công giáo nghe vào những ngày chúa nhật. Dụ ngôn người con hoang đàng không có phần nào trong nghi thức phụng vụ ngày chúa nhật và câu chuyện người Samaritanô tốt lành cũng như thế. Những bài Thánh Thư cung cấp cho bài đọc đầu tiên như một danh sách dài đang chờ được chấp nhận để biên soạn sách Tông đồ công vụ, câu chuyện của Giáo hội tiên khởi được chọn một lần trong năm vào Chúa nhật Hiện Xuống. Không có bài đọc nào được lấy từ Cựu ước và sách Khải Huyền cũng chẳng bao giờ đọc trong thánh lễ ngày chúa nhật.

Công đồng Vaticano II, dùng một hình ảnh phong phú đã quyết định rằng: “Kho tàng Thánh Kinh đã khai mở cách dư thừa và phong phú để cung cấp cho các tín hữu” (Hiến chế về phụng vụ, số 51). Việc tu sửa phụng vụ đã làm viên mãn quyết định này bằng cách chọn lựa những đoạn Thánh Kinh được chia làm ba thời kỳ vào các chúa nhật chứ không còn là một thời kỳ như trước bằng việc cung cấp thêm bài đọc trước Phúc âm chứ không phải là một như trước.

Năm nay tính theo chu kỳ phụng vụ là năm A, những bài Phúc âm sẽ theo thánh Mathêu. Chu kỳ phụng vụ năm B giới thiệu Phúc âm theo thánh Marcô và chu kỳ phụng vụ năm Chúa theo thánh Luca. Phúc âm theo thánh Gioan trước hết được dùng vào các chúa nhật năm A trong suốt mùa chay, suốt mùa Phục Sinh và điền vào chu kỳ phụng vụ năm B. Suốt mùa Phục Sinh, bài đọc I được lấy từ sách Tông đồ công vụ, những mùa khác thì trái lại, bài đọc I luôn luôn lấy từ Cựu ước, bài đọc II thì luôn luôn lấy từ Tân ước. Sách Khải huyền là bài đọc II trong suốt mùa Phục sinh trong chu kỳ phụng vụ năm C.

Để thu được nhiều lợi ích qua việc giới thiệu cách dồi dào kho tàng Thánh Kinh, tất cả chúng ta phải làm cho mình nhiệt tình hơn trong việc tham dự thánh lễ. Quả thật, chúng ta phải công nhận rằng chúng ta có đến nhà thờ với nhiều thời gian nhưng chú ý đến các bài đọc thì không có mấy. Chúng ta phải lắng nghe trong tinh thần đức tin, đó là Đức Kitô đang nói với chúng ta khi Thánh Kinh được tuyên đọc (Hiến chế Phụng Vụ, số 56-57)

Cho Lời Chúa một vị trí quan trọng như thế, còn tiệc Thánh Thể thì sao? Một cách nhìn sự hiệp lễ là xem Mình và Máu của Chúa giống như mưa và tuyết đổ xuống từ trời cao và làm cho đất phì nhiêu. Sự hiệp lễ cho chúng ta ý nghĩa chúng ta cần, để khi nghe đọc Thánh Kinh chúng ta được những chân lý trong ấy hướng dẫn để sống theo ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Thần không chỉ linh ứng cho những trang Thánh Kinh, Thánh Thần còn chúc phúc cho chúng ta qua công trình của Công đồng Vaticano II.

5. Mở tai, mở mắt – Achille Degeest. (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Ý nghĩa đại cương của dụ ngôn người gieo giống được chính Chúa giải thích. Nhiều bài bình giảng đã quảng diễn về sau lời giải thích ấy. Ở đây chúng ta dừng lại mầu nhiệm đáng sợ: cách thức người ta tiếp nhận lời Chúa. Quả thật trong dụ ngôn có thuật lại 1 lời Chúa dạy rằng, nhiều kẻ bịt tai nhắm mắt lại để khỏi nghe khỏi thấy. Nhiều người được gọi là có phúc vì họ thấy và nghe.

1) Làm sao người ta có thể bịt tai nhắm mắt trước lời của Chúa? Việc ấy tuỳ thuộc vào sự chọn lựa thâm sâu dấu kín tận đáy lòng, bằng vào đó mà người ta quyết định về cuộc sống của mình. Vượt ngoài mọi luật tất định, sở dĩ lời Chúa dược đề ra cho người ta tin theo, là vì nơi con người có một hạt nhân tự do có thể quyết định đón nhận một cách hữu trách. Xét đoán theo nhân loại mỗi trường hợp riêng là việc không thể làm được. Điều quan trong là biết rằng con người có trách nhiệm khi đối diện lời Chúa. Do đó một con người có thể đã quyết định thâm sâu trong lòng khiến anh đui và điếc trước Chân Lý đang đến gặp anh. Nêu Chân Lý nhằm vào chỗ thâm sâu, quyết định ấy lại càng mãnh liệt dứt khoát. Thực vậy, khi con người cảm thấy liên luỵ đến cả định mệnh, anh sẽ hung dữ và bảo vệ các chọn lựa của mình và không chịu để cho người khác để lay chuyển. Một hiện tượng như thế đã xảy ra nơi những người Do thái gặp Đức Kitô. Hiện tượng ấy ngày nay vẫn còn xảy ra. Chúng ta không thể xét đoán trách nhiệm của những người từ khước TC và Đức Kitô. Nhưng bí ẩn của trách nhiệm ấy chất vấn chúng ta, vì nó đặt chúng ta vào một con đường đi không bao giờ cùng. Nếu quả thật chúng ta có đón nhận Lời Chúa thì vẫn chưa đón nhận hoàn hảo và chúng ta vẫn còn phải từ bỏ mình để theo những gì TC mời. Có thể mắt và tai chúng ta đã mở, nhưng chúng ta vẫn còn luôn luôn phải dọn sạch và tẩy rửa. Chúng ta có nghĩ đến việc ấy chăng.

2) Làm sao để đáng được lời Chúa phán với các môn đệ: phúc cho mắt các con vì được thấy, phúc cho tai các con vì được nghe? Bằng cách nỗ lực tiến đến một trạng thái tâm hồn. Các môn đệ là những người đơn sơ, ngay thẳng, không có hệ thống trí thức cứng ngắt, nghèo hèn, không có đặc quyền để bảo vệ, không có ích kỷ để chống giữ, gần gũi với cuộc sống thực và họ có trái tim trong sạch, đặc ân của những người ngay thẳng và giản đơn. Ngày nay để giữ cho mắt và tai luôn mở ra đón nhận Phúc âm, chúng ta phải được kháng nhiễm chống lại một bầu không khí tinh thần và luân lý, nó xác trộn tâm trí và làm vẩn đục trái tim. Có một thế giới ra sức biện minh cho bất cứ lý thuyết nào, bất cứ thói hư nào, lo âu duy nhất là tiền tài và danh vọng. Nhiều tờ báo, nhiều đài truyền thanh truyền hình đổ ra suốt ngày thỉnh thoảng được vài điều thât hay còn ngoài ra từng đống nguỵ biện, khiêu dâm, bạo hạnh, những cuộc trình diễn người ta nói đã được nghệ thuật thanh tẩy, nhưng làm vẩn đục tâm trí người xem. Câu hỏi là như thế này: chúng ta chọn để cho cái gì thấm nhập vào mình để cho những gì thế gian mời chào, hay để cho những gì Phúc âm đề nghị? Khả năng chăm chú nghe lời Chúa tuỳ thuộc vào câu trả lời.

6. Hạt giống Lời Chúa (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Ông Chirgwin, trong quyển sách mang tựa đề: “Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo”đã kể câu chuyện sau đây:

Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế không thể tưởng tượng nổi.

Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, đàn bà, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng, hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ đi công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may cảm lòng, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Hai bà chỉ để lại cho hắn quyển Thánh Kinh Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi mà tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực.

Niềm hy vọng của họ đã trở thành hiện thực, Ishi-I đã đọc những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt, khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Lời ấy đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại:

“Đọc đến lời ấy “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin”.

Cuối cùng, ông Chirgwin, tác giả câu chuyện này, kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp một tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hoà nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.

(Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến một chuyện phim video mới đây được giải thưởng Oscar, mang tựa đề: “Dead man walking” (Người chết biết đi). Ở các quầy cho thuê băng video, mang tựa đề: “Tên tử tội”).

Anh chị em thân mến,

Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên giết người không gớm tay như anh Tokichi Kshi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ và giáo dân đang dấn thân phục vụ những trẻ em bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội. Đúng như Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng hôm nay: “Lời Chúa như hạt giống được gieo vào đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành một trăm”.

Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người gieo giống”để mô tả số phận Lời Chúa được tung ra giữa nhân loại và đem lại kết quả như thế nào: Có hạt rơi xuống bên vệ đường, chim trời ăn mất. Có hạt rơi xuống trên sỏi đá, không đâm rễ được, bị khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, bị chết nghẹt. Chúa không chú trọng đến phần mất mát đó cho bằng đến sự phát triển mạnh mẽ của hạt giống khi rơi vào phần đất tốt. Nó sẽ nẩy sinh một mùa gặt phong phú, một thành ba mươi, sáu mươi hay một trăm. Vậy thì chúng ta đừng ai nản lòng vì mất mát, thiệt thòi. Người gieo giống cứ thẳng tay tung vãi khắp nơi một cách quảng đại, không dè xẻn. Bên ngoài xem ra như mọi sự chống lại việc triển nở của hạt giống Lời Chúa. Nhưng hãy chờ mùa gặt đến, kết quả sẽ vượt mức tưởng tượng, vì đây là công việc của Thiên Chúa. (Một tên giết người không gớm tay như Ishi-I, thế mà Lời Chúa đã từ từ thấm nhập vào tâm hồn, đã cải hoá anh thành một con người mới, một người hoà nhã, lễ độ, sám hối và đã tin).

Thánh Justinô tử đạo vào năm 150, khi suy niệm về dụ ngôn người gieo giống này đã khuyên bảo những người rao giảng Tin Mừng, đừng bao giờ thất vọng: “Chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa đã được gieo vào cánh đồng thế giới chúng ta. Ngài cũng đã bị hiểu lầm, bị chống đối, đã gặp bao thất bại… Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như hạt giống, Ngài đã nẩy sinh bao hoa trái sự sống dồi dào”.

Thưa anh chị em,

Ngày nay Giáo Hội không ngừng rao giảng Lời Chúa qua các thế hệ trên khắp thế giới. Giáo Hội cũng gặp nhiều khó khăn, thất bại như: thiếu phương tiện, bị bách hại, đời sống kém cỏi của một số giáo sĩ và giáo dân, số người rửa tội ngày càng ít đi trong một thế giới duy vật và trần tục hoá. Thật đáng buồn khi thấy đời sống đạo ngày càng sa sút. Lời Chúa như rơi vào sỏi đá, vào bụi gai hay ngoài đường lộ. Tuy nhiên, như lời Thánh Justinô: đứng thất vọng, người gieo cứ việc gieo và để cho Lời Chúa âm thầm hoạt động. Không có gì được phép làm cho chúng ta phải nghi ngờ hay chán nản. Hạt giống Lời Chúa có thể là bé nhỏ, có thể bị đối xử tàn tệ, bị chà đạp, bị lấn át, nhưng năng lực của nó là vô hạn (x. Bđ: Is 55,10-11).

Bổn phận của chúng ta là thành tâm đón nhận Lời Chúa, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống giữa lòng đời. Không phải chỉ nghe suông mà còn tìm hiểu ý Chúa muốn chúng ta phải làm gì. Có bao nhiêu chướng ngại chống lại việc tìm hiểu và thực thi Lời Chúa: nào là những quyến rũ của đời sống trần tục, nào là những lo lắng việc đời, ham mê của cái. Chúng như chim trời sà xuống cướp lấy hạt giống vừa rơi xuống, hoặc như sỏi đá, như bụi gai cản trở, bóp nghẹt Lời Chúa.

Anh chị em thân mến,

Mỗi Chúa Nhật, chúng ta họp nhau dự Tiệc Thánh, gồm có Lời Chúa và Thánh Thể của Chúa. Hãy đón nhận với niềm tin yêu để Lời Chúa và Thánh Thể trở nên sức sống và ánh sáng, niềm vui và hy vọng cho cuộc đời chúng ta. Rồi đến lượt chúng ta lại trở thành người ra đi gieo giống, người Tông đồ rao giảng Lời Chúa, góp phần vào mùa thu hoạch của Giáo Hội cho Nước Trời vào ngày sau hết.

7. Luôn luôn gặt hái kết quả

Sách lễ cho chúng ta chọn giữa một bài đọc ngắn chỉ kể lại dụ ngôn người gieo giống và một bài đọc dài có thêm câu trả lời của Chúa Giêsu đáp lại câu hỏi “Tại sao Thầy dùng dụ ngôn để nói?” và lời giải thích dụ ngôn người gieo giống. Tôi chọn bài đọc ngắn, đúng như nó mô tả câu chuyện những hạt gieo của Chúa Giêsu.

Đọc đến chương 13 này của Matthêu, “chương của những dụ ngôn”, chúng ta biết được gì? Chúa Giêsu đã gieo nhiều trên tất cả các mảnh đất. Ngài đụng phải những cái đầu cứng rắn của những luật sĩ và người Pharisêu. Ngài đã thấy những người phấn khởi nhưng bỏ Ngài rất nhanh. Ngài đã cảm nhận những thái độ ngập ngừng nơi các môn đệ của Gioan Tẩy giả và sự bối rối nơi chính Gioan Tẩy giả: “Thầy có phải là Đấng- phải -đến hay không?” Sự dửng dưng của một số thành phố đã tác động mạnh đến Ngài: “Khốn cho người hỡi thành Côrô! Khốn cho người hỡi thành Bétsai!” Tất cả những điều đó tạo nên một bức tranh khá đen tối. Nước Trời dường như khó khởi động.

Chính trong bối cảnh này mà dụ ngôn người gieo giống có tầm quan trọng rất lớn. Dụ ngôn này nói lên nhận xét sáng suốt nhưng không thất vọng của Chúa Giêsu. Ngài mời gọi chúng ta can đảm bằng cách nhìn vào điều quan trọng nhất: người gieo giống ra đi để gieo lúa. Nhưng thật là một người gieo giống kỳ lạ!

Người đó ra đi từ nơi Thiên Chúa và đến với chúng ta để gieo Thiên Chúa. Đây là một biến cố bất ngờ, không phải là một giai đoạn của lịch sử mà là sự đảo lộn lịch sử: “Các ngươi hãy mau ăn năn hối cải, vì Nước Trời đã gần kề!”

Tin Mừng này đã làm cho mọi người phấn khởi. Sau đó, khi lời rao giảng tỏ ra có yêu cầu một số thính giả bén rễ vào lời rao giảng đó, nhưng một số khác rơi vào trong cuộc sống hời hợt hoặc ngổn ngang trăm bề và thậm chí trong sự chống đối, những con đường, những hòn đá, những bụi gai, những mảnh đất tốt, đất đai thật khác nhau! Mặc kệ, người gieo giống kỳ lạ này đã thấy được kết quả rồi: hạt được ba mươi, hạt được bốn mươi, hạt được một trăm. “Ai có tai nghe, hãy nghe!”

Nghe lời kêu gọi tin tưởng khi việc gieo giống có vẻ như thất bại. Trường hợp này đã xảy ra cho các nhà truyền giáo. Đây cũng là trường hợp xảy ra cho mọi tông đồ hiện nay, cho mọi Kitô hữu xem truyền hình và những người qua lại trên đường: “Đâu là những cây lúa đang mọc lên?”

Đây là câu trả lời. Đấng biết rõ những mảnh đất con người khẳng định với chúng ta rằng có những mảnh đất khô cằn thì cũng có những mảnh đất tốt tươi và do đó luôn luôn có kết quả.

Chúa Giêsu đã nói điều này với nhũng đám đông bối rối, với những môn đệ bị dao động. Ngài nói điều đó với chúng ta bây giờ là những người đo lường sự bỏ rơi việc hành đạo, sự dửng dưng của con cái chúng ta, sự gia tăng những người vô tín ngưỡng-Đấng kể dụ ngôn này hiện vẫn sống, dụ ngôn này được dành cho chúng ta. Đấng gieo giống đang có mặt ở đó, cho nên không có ai, không nơi nào, có quyền đoán xét rằng mọi hạt giống đều bị mất đi. Bao lâu chúng ta gieo Tin Mừng, chúng ta sẽ có kết quả là hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi.

8. Hạt giống Lời Chúa – R. Veritas.

Một cầu thủ đấu bóng rổ đã tâm sự với các phóng viên báo chí như sau:

Quan niệm của tôi về cuộc sống nay đã thay đổ hăn, tôi nghĩ rằng điều quan trọng hơn trong lúc này là dành nhiều thời giờ hơn để sống gần gũi với con cái tôi và biết thưởng, quí trọng những điều khác nữa, chứ không phải chỉ có môn thể thao bóng rổ mà thôi. Dù gặp bất hạnh, nhưng anh Colin đã là người có phúc khác, bởi vì anh đã nghe được điều mà nhiều người muốn nghe màkhông được nghe, đó là nghe được tiếng Chúa nói với anh trong các biến cố cuộc đời. Anh Colin khám phá ra được rằng, cuộc sống của anh còn nhiều điều hay ho và quan trọng khác nữa.

Anh chị em thân mến,

Thiên Chúa dùng mọi tình huống để thức tỉnh chúng ta lắng nghe và sống lời Ngài. Dụ ngôn về người gieo giống hôm nay cần được chúng ta dành nhiều thời gian trong ngày sống để suy niệm nhiều hơn, để lĩnh hội các ý nghĩa mà chính Chúa đã giải nghĩa có các môn đệ.

Thiên Chúa đã luôn luôn gieo vãi lời Ngài khắp nơi, với mọi hạng người, với mọi hoàn cảnh. Chúng ta đáp lại Lời Chúa như thế nào? Chúng ta có cần Chúa mở mắt chúng ta qua một biến cố đau thương như biến cố đã xảy ra với anh Colin hay không? Có cần Thiên Chúa thiêu đốt tất cả những gì chúng ta đang mù quáng bám víu vào như là giá trị duy nhất của đời mình, để giúp chúng ta trở về với Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa hay không?

Bằng cách nào đó không thể nói là tự nhiên tốt được. Tâm hồn con ngừoi cũng thế, tự nó không phải tự nhiên tốt, nhưng cần được ân sủng Chúa thánh hóa, thanh luyện mới có thể trở nên tốt, và mỗi người chúng ta cần cộng tác với ơn Chúa để tâm hồn chúng ta được trở nên mảnh đất tốt và trổ sinh nhiều hóa trái.

Thiên Chúa rất thường đến viếng thăm chúng ta qua các biến cố lớn nhỏ, vui buồn, nhưng rất nhiều khi hay là hầu hết nhiều khi, hầu hết mỗi lần Chúa đến thăm để nói với chúng ta một điều gì đó, mạc khải cho chúng ta một điều gì đó thì chúng ta lại vắng mặt, chúng ta lại lo ra. Nhiều lần chúng ta được tiếp xúc với Lời Chúa nhưng chúng ta lại lơ là không màng chi đến Lời Chúa nữa.

Ước chi hôm nay, trong giây phút này, chúng ta hãy trở về ngồi lại nơi căn nhà tâm hồn của chúng ta trong thinh lặng để kiểm điểm lại những gì mình đã làm hư hỏng, để được kín múc lấy sức mạnh của Chúa mà giúp ta canh tân trong cuộc sống.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hồi tâm trở về, lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa, xin Chúa giúp con biết cộng tác với ơn Chúa, để mảnh đất tâm hồn chúng con trở nên mảnh đất tốt, để chúng con luôn biết đón nhận Lời Chúa và để cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái trong tâm hồn chúng con mỗi ngày một hơn. Amen.

9. Nghe giảng

Benjamin Franklin là một vị tổng thống nổi tiếng của nước Mỹ. Ngày kia, ông nhân được món quà, đó là một cái chổi từ Ấn Độ. Ông nhìn thấy mấy hạt giống còn dính vào cái chổi, và thế là ông bứt ra và đem gieo những hạt giống ấy.

Sau lần thu hoạch đầu tiên, ông đem phân phát tất cả những hạt giống mình có cho bà con lối xóm. Và vu thu hoạch của họ cũng thành công tốt đẹp. Bằng cách này, ông trở nên người đầu tiên đưa rơm vào Hoa Kỳ và khởi đầu cho kỹ nghệ sản xuất chổi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng vừa nghe. Thực vậy, tất cả chúng ta đều được mời gọi phải hành động như thế. Chúa Giêsu ban cho chúng ta những chân lý của Người, đó là như những hạt giống chúng ta cần phải gieo trồng trong tâm trí chúng ta đã đành, mà còn phải đem gieo trồng trong tâm trí những người khác nữa.

Những hạt giống này, những chân lý này, Người ban cho chúng ta qua Thánh Kinh, qua sự giáo huấn của Hội Thánh, cụ thể là qua sự giảng dạy của các linh mục.

Như vị tổng thống nước Mỹ, chúng ta hãy đón nhận những chân lý ấy, hãy gieo trồng trong cõi lòng chúng ta, đồng thời cũng hãy chia sẻ những chân lý ấy cho những người chung quanh.

Bổn phận của tôi là nói nói về những chân lý ấy cho anh chị em. Còn bổn phận của anh chị em là lắng nghe và làm cho những chân lý ấy được nảy mầm và lớn lên, như lời Chúa Giêsu đã phán: Ai có tai để nghe, thì hãy nghe.

Tôi xin đưa ra một vài việc gợi ý cần làm ngay để chúng ta thâu lượm được những thành quả tốt đẹp khi nghe giảng.

Như một bác nông phải, trước khi xạ lúa cân phải chuẩn bị ruộng đất. Chúng ta cũng thế. Thật là hữu ích nếu như trên đường tới nhà thờ tham dự thánh lễ, chúng ta biết tự chuẩn bị đón nhận chân lý. Chúng ta đừng nói: Lạy Chúa, hôm nay xin đừng để cha giảng quá dài. Trái lại hãy thân thưa: Lạy Chúa, xin giúp con đón nhận những chân lý để nuôi sống đời sống thiêng liêng của con. Chính người giảng cũng phải cầu nguyện như thế, để những người nghe mình giảng sẽ lợi dụng được những điều mình trình bày, và sẽ cung cấp được những mảnh đất phì nhiêu cho những chân lý mình đang cố gắng gieo trồng. Chúng ta không phải chỉ cầu nguyện cho mình, mà còn phải cầu nguyện cho người giảng nữa. Đó quả thực là một việc làm quí giá biết bao.

Tiếp đến, khi bước chân vào trong nhà thờ, chúng ta hãy làm dấu thánh giá trên mình, như để rũ sạch những lo âu trần thế và mở rộng tâm hồn cho hạt giống chân lý. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe những lời cầu nguyện, những bài đọc Thánh Kinh, nhất là bài Tin Mừng, đồng thời cũng hãy chú ý tới bài giảng, bằng cách cố gắng hiểu và nhớ.

Đức Kitô nói với chúng ta qua môi miệng của vị linh mục, thế nhưng, vị linh mục cũng chỉ là một con người, nên cũng có những giới hạn của mình. Con người đứng trên bục giảng có thể là một dụng cụ hữu hiệu, nhưng cũng có thể là một dụng cụ vô tích sự. Sứ điệp có thể được quảng diễn một cách trong sáng hay mù mờ, thế nhưng, nội sung của sứ điệp mới là điều quan trọng, còn cách diễn tả chỉ lả điều thứ yếu. Hãy lắng nghe và thực thi trong cuộc sống những điều đã đón nhận, để Lời Chúa thực sự nảy mầm, đâm bông và kết trái trong cuộc sống chúng ta.

10. Hạt giống và người gieo giống

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hạt giống và người gieo giống, cũng như về thửa đất đón nhận hạt giống.

Trước hết, hạt giống và người gieo giống chính là Đức Kitô.

Thực vậy, Ngài đã đến trong cánh đồng trần gian. Thế nhưng, Ngài đã bị hiểu lầm, đã gặp biết bao nhiêu khó khăn và thất bại. Nhưng sau khi bị chôn vùi vào lòng đất như một hạt giống, Ngài đã nảy mầm đâm bông và kết trái.

Tiếp đến, hạt giống và người gieo giống còn là Giáo Hội.

Thực vậy, như Chúa Giêsu, Giáo Hội trải qua giòng thời gian cũng đã gặp phải biết bao nhiêu thất bại và cấm cách. Tuy nhiên, tất cả không thể làm cho Giáo Hội nghi ngờ hay thất vọng về sứ mạng của mình.

Hạt giống lời Chúa cũng như bản chất của Giáo Hội, có thể là rất nhỏ bé. Nhỏ bé như một hạt cải, nhỏ bé như một dúm men, nhưng năng lực của lời Chúa cũng như của Giáo Hội là vô hạn.

Không phải là qua những thành công rực rỡ bên ngoài mà Chúa Giêsu đã cứu độ nhân loại. Trái lại, Ngài đã bước vào chặng đường thập giá, bước vào tiến trình của một hạt giống được gieo vào lòng đất cần phải mục nát.

Bởi đó, Ngài đã trách cứ hai môn đệ trên đường về Emmaus:

- Hỡi những kẻ kém trí và chậm tin, Đức Kitô há không phải chịu thương khó rồi mới được vào chốn vinh quang hay sao?

Cũng vậy, Giáo Hội cần phải bước vào chặng đường thập giá, cần phải bước vào tiến trình mục nát của một hạt giống. Những thời Giáo Hội được huy hoàng nhất chưa hẳn đã là những thời mà Nước Chúa được mở rộng hơn cả.

Còn thửa đất thì sao?

Trước tiên, thửa đất là thế gian này. Thực vậy, Đức Kitô đã đến trong thế gian và gieo vào đó hạt giống lời của Ngài. Thế gian trước kia đang khô cằn và chờ mong ơn cứu độ. Thế nhưng, kể từ đây có thể trở nên phì nhiêu cho lời Chúa sinh hoa kết trái.

Thế nhưng quan trọng hơn cả, mảnh đất phì nhiêu ấy phải là chính cõi lòng chúng ta. Đúng thế, mặc dù lời Chúa đầy hiệu năng, nhưng tự nó lời Chúa cũng không đủ để đảm bảo một mùa gặt tốt đẹp, bởi vì lời Chúa còn cần phải gặp được những thửa đất tốt.

Thiên Chúa tiếp tục gieo vãi hạt giống lời Ngài vào cõi lòng chúng ta. Nhiều người nghe nhưng ít người hiểu. Nhưng hiểu mà thôi cũng chưa đủ, chúng ta còn phải sống lời Chúa. Bởi vì, không phải chỉ nghe, chỉ hiểu là lời Chúa tự động nảy nở trong cõi lòng chúng ta và đem lại những hoa trái.

Mặc dù lời Chúa có đủ sức để đảo lộn cuộc đời chúng ta, nhưng hiệu năng của lời Chúa không phải là tự động, không phải là máy móc. Sự tăng trưởng của lời Chúa hoàn toàn tùy thuộc vào mỗi người chúng ta.

Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta sự tự do và Ngài luôn tôn trọng sự tự do ấy cho tới cùng. Ngài đề nghị mà không ép buộc:

- Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào và dùng bữa với kẻ ấy.

Chúng ta có tự do để trở nên một đám sỏi đá, một bụi gai, một lối đi cằn cỗi, nhưng đồng thời cũng có thể là một thửa đất tốt. Tất cả mọi loại đất đều tùy thuộc ở cõi lòng chúng ta.

Vậy chúng ta sẽ là thửa đất nào? Chúng ta đã nghe và đã hiểu, nhưng liệu chúng có dám sống lời Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy hay không?


(Theo website Phạm Minh Mẫn)